Khi kỹ thuật cao trong tay kẻ độc tài
Vào tháng 5 năm 2014, Stephen Hawking, cùng nhiều nhà khoa học, đã cảnh báo thế giới: “Thành công trong việc tạo ra AI (Trí tuệ Nhân tạo – Artificial intelligence [AI] là lãnh vực của điện toán đặc biệt chú trọng sáng chế những máy móc thông minh có khả năng làm việc và phản ứng như con người) sẽ là sự kiện lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Không may nó đồng thời có thể là sự kiện cuối cùng, trừ phi chúng ta học cách làm thế nào để tránh được các hiểm hoạ”.
“Gần đây giới quân sự trên thế giới rất quan tâm tới các hệ thống vũ khí-tự hành, những vũ khí có thể chọn và tiêu diệt mục tiêu; Liên Hiệp Quốc và Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã chủ trương một hiệp ước cấm những loại vũ khí như vậy”.
Phát triển kỹ thuật cao
Nhưng ngày này, trong khi báo chí thế giới đang sôi động bởi phát thanh viên dẫn chương trình thời sự sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) đầu tiên trên thế giới của Tân Hoa Xã – hãng thông tấn nhà nước Tàu Cộng, thì chỉ một số ít người nhận thức được về một chương trình phát triển các loại vũ khí sử dụng trí tuệ nhân tạo đáng sợ tại Học Viện Kỹ Thuật Bắc Kinh (BIT) – một trong những cơ sở nghiên cứu về vũ khí hàng đầu ở Tàu Cộng.
Theo báo cáo gần đây của tờ Hoa Nam Buổi Sáng (Hồng Kông), BIT đã chọn ra 31 sinh viên ưu tú nhất dưới 18 tuổi trong một cuộc tuyển chọn từ hơn 5,000 thí sinh cho “Chương trình thử nghiệm hệ thống vũ khí thông minh” 4 năm của họ.
Những tài năng trẻ này phải được thấu triệt về lòng yêu nước và lòng trung thành của họ đối với nhà nước một đảng mới được đưa vào môi trường kỹ thuật cao này. Ngày nay, Đảng Cộng sản Tàu (ĐCST) không che dấu ý định thống trị thế giới cả về kinh tế, quân sự và kỹ thuật cao, phần lớn được đánh cắp từ phương Tây là những phương tiện cần thiết để chế độ này đạt được mục tiêu [tà đạo] của họ.
Kể từ năm 2014, hàng năm Tàu Cộng đều tổ chức cái gọi là “Hội Nghị Internet Thế giới”, nhưng ảnh hưởng quốc tế tại hội nghị năm nay kém hơn vì chỉ có một Uỷ Viên Ban Quản Trị của công ty sản xuất vi tính Qualcomm phát biểu ý kiến, so với danh sách dài các diễn giả hồi năm ngoái, gồm cả nhiều CEO nổi tiếng như Tim Cook của Apple và Sundar Pichai của hãng Google.
Cuộc chiến thương mại đang diễn ra giữa Mỹ-Tàu Cộng đã phủ bóng đen lên hội nghị năm nay khi các công ty kỹ thuật phương Tây ở nước Tàu đang tìm kiếm một lối thoát an toàn và những cơ xưởng sản xuất mới bên ngoài Tàu Cộng.
Trong ba thập kỷ qua, các công ty phương Tây hy vọng đạt được một thị phần sinh lợi ở Tàu Cộng, nhưng điều đó chỉ có thể xảy ra bằng cách trả một giá đắt qua hình thức chuyển giao kỹ thuật cao dưới áp lực của nhà cầm quyền địa phương.
Những vụ chuyển giao kỹ thuật ép buộc này đã dần làm giảm ý nghĩa đích thực cạnh tranh của các công ty phương Tây. Theo một báo cáo năm 2017 của Văn Phòng Đại Diện Thương Mại Hoa Kỳ, mỗi năm Tàu Cộng lấy trộm tài sản trí tuệ từ Mỹ trị giá khoảng 600 tỷ USD.
Để đạt được kế hoạch chiến lược “Sản Xuất Tại Tàu Cộng năm 2025” (Made in China 2025) – một chương trình đẩy Tàu Cộng lên vị trí thống trị trong 10 lĩnh vực kỹ thuật cao – Tàu Cộng bắt đầu tổ chức một loạt các hội chợ thương mại hàng năm, như Hội Nghị Internet Thế Giới ở Ô Trấn (Wuzhen), tỉnh Chiết Giang và Triển lãm xuất nhập khẩu Quốc Tế Tàu Cộng (cả hai đều diễn ra vào tháng 11/2018 này), để thu hút các công ty toàn cầu lớn đầu tư vào Tàu Cộng. Nhưng năm nay, các công ty phương Tây rất cảnh giác với việc đầu tư kinh doanh ở Tàu Cộng.
Hệ thống mạng vùng địa phương
Ba năm qua, “Hội Nghị Internet Thế Giới” liên tục vấp phải những lời chỉ trích mạnh mẽ từ các cư dân mạng Tàu Cộng, những người phàn nàn rằng mạng Internet của Tàu Cộng trên thực tế là một mạng nội bộ hay Mạng vùng địa phương (Local Area Network). Họ cho rằng hệ thống Vạn Lý Tường Lửa khét tiếng sàng lọc và kiểm soát cái gọi là “hàng trăm từ ngữ nhạy cảm”, kể cả của nhiều mạng xã hội và các đài truyền thông nước ngoài.
Một số cư dân mạng Tàu Cộng phàn nàn về cái gọi là Hội Nghị Internet Quốc Tế, cho rằng thế giới mạng thực tế của họ bị giam hãm trong 9,600,000km2, kích thước lãnh thổ Tàu Cộng. Hiện nay với kỹ thuật nhận diện khuôn mặt và cái gọi là “hệ thống chấm điểm tín nhiệm xã hội” – một chương trình giám sát toàn diện đánh giá và nhận dạng người dân Tàu trên cơ sở thái độ của họ, từ đó ép buộc phải trung thành với chế độ – các công dân Tàu bị theo dõi chặt chẽ bởi Big Brother – hệ thống dữ liệu gián điệp của nhà cầm quyền Tàu Cộng.
Trên thực tế, hơn 800 triệu người dùng Internet ở Tàu Cộng sống trong một thế giới ảo biến tướng, trong đó ĐCST kiểm soát tất cả các nguồn thông tin, trừ một số người hoặc giỏi kỹ thuật, hoặc những người phải trả tiền cho phần mềm Mạng Cá Nhân Ảo (VPN-Virtual Private Network) để vượt tường lửa.
Hai công cụ vượt tường lửa miễn phí của Mỹ là Free Gate và Ultra Surf bị kiểm duyệt chặt chẽ ở Tàu Cộng, nhưng vẫn có thể giúp hàng trăm nghìn người đăng nhập vào các trang mạng ở nước ngoài hàng ngày.
Khi kỹ thuật nâng đỡ chính thể chuyên chế
Vì sao Bắc Kinh thích kiểm duyệt Internet đến thế? Ngải Vị Vị, một nghệ sĩ bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền Tàu Cộng, có lẽ có lời giải thích hay nhất về điều này, “Việc kiểm duyệt nói lên rằng: ‘Ta là người duy nhất được nói lời cuối cùng. Dù ngươi có nói gì đi nữa, kết luận là của ta’. Nhưng Internet giống như một cái cây đang lớn. Con người sẽ luôn nói câu cuối – thậm chí cả người có giọng nói rất nhỏ nhẹ yếu ớt. Quyền lực như vậy sẽ sụp đổ vì một lời thì thầm”.
Ngày nay ý tưởng cho rằng kỹ thuật cao sẽ giúp tự do hoá các xã hội khép kín có thể không còn đúng với từng trường hợp, đặc biệt ở Tàu Cộng. Trong bài viết “Vì sao kỹ thuật nâng đỡ chuyên chế” đăng trên tờ The Atlantic, tác giả Yuval Noah Harari đưa ra câu trả lời chi tiết về việc vì sao kỹ thuật không nhất thiết giúp đỡ các xã hội tự do, và thay vào đó, nó thường nâng đỡ các xã hội chuyên chế khi kỹ thuật hiện đại bậc nhất trở nên ngày càng tạo ra sự cách biệt với quần chúng.
Mặc dù một số luận điểm quan trọng của Harari trở thành chủ đề để bàn cãi, nhưng ông đã nêu ra một vài phản biện về việc bằng cách nào kỹ thuật và AI có khả năng khiến các thể chế độc tài trở nên mạnh mẽ, cũng như mối nguy hiểm của việc chuyển giao quyền lực cho máy móc.
Theo quan điểm của ông Harari, mắt xích yếu kém của các chế độ độc tài trong thế kỷ 20 – khát khao tập trung tất cả thông tin và quyền lực – có thể trở thành lợi thế quyết định của họ trong thế kỷ 21, nhờ có những kỹ thuật mới như AI.
Ông Harari dường như có quan điểm hợp với lý luận của nó rằng ngày nay kỹ thuật cao làm tăng cường sự kiểm soát độc tài trong các xã hội khép kín. Đối với hàng chục triệu người thuộc Thế hệ sinh ra từ năm 2000, cũng được biết đến là “Thế Hệ Vạn Lý Tường Lửa” ở Tàu Cộng, họ lớn lên đã quen với một tập hợp khác của thực tế ảo so với những người sống trong phần còn lại của trái đất.
Như Mã Kiến, một tiểu thuyết gia người Tàu sống lưu vong, gần đây đã diễn tả, tác phẩm “Năm 1984” của Orwell đã được hiện thực hoá “một cách trọn vẹn và đầy đủ” ở dưới chề độ Tàu Cộng.
Báo cáo của đài phát thanh Úc ABC, với tiêu đề “Tôi không biết Facebook hay Twitter. Thế hệ 2000 Vạn Lý Tường Lửa của Tàu Cộng đã bị chia tách khỏi phương Tây”, đưa ra một thực tế lạnh người: người dùng Internet trẻ ở Tàu Cộng lớn lên với những quan điểm về thế giới khác xa với những người sống trong phần còn lại của thế giới. Vạn Lý Tường Lửa hiển nhiên đã tạo ra hai thế giới song song trên địa cầu này.
Một số công ty phương Tây hỗ trợ ĐCST
Để làm mọi việc tồi tệ hơn, một vài công ty kỹ thuật phương Tây tình nguyện giúp mài sắc những công cụ đàn áp của ĐCST, bất chấp sự phản đối từ nội bộ.
Khi Pichai, CEO của Google, tuyên bố với báo giới: “Kỹ thuật không giải quyết những vấn đề của nhân loại”, ông ta dường như truyền tải thông điệp rằng Google thực tế có thể tạo ra những vấn đề của loài người, dưới tác động của “Dự án Chuồn Chuồn” đầy tranh cãi của họ. Dự án này nhằm mục đích giúp đỡ ĐCST giám sát những người dùng mạng trực tuyến.
“Đừng trở thành quỷ dữ” đã là khẩu hiệu của Google từ năm 2000, nhưng quy tắc ứng xử này đã bị lặng lẽ dỡ bỏ trước khi công ty mẹ của Google là Alphabet, vào năm 2015, chấp thuận một phương châm mới “Làm đúng việc” – một cố gắng rõ ràng nhằm phủi sạch quan hệ ma quỷ của họ với ĐCST. Ai đó có thể hỏi, “Liệu có phải Google đang cố hết mức bán linh hồn của mình để thâm nhập thị trường Tàu Cộng?”
Theo báo cáo của tờ Sydney Morning Herald có tựa “Từ sinh viên tới những thiết bị bay không người lái: Đảng cộng sản Tàu Cộng huấn luyện lực lượng nòng cốt của họ ở Úc như thế nào,” một vài trường đại học ở Úc, cũng như một số trường ở Na Uy, Anh và Đức, đang phục vụ như những trung tâm sáng tạo cho các nghiên cứu viên của “Quân Giải Phóng Nhân Dân Tàu Cộng” (PLA) nhằm giúp họ nắm vững kỹ thuật về Trí tuệ Nhân tạo cho các mục đích quân sự và chiến đấu.
Các mã nguồn mở của các trường đại học phương Tây xem ra phục vụ rất tốt PLA trong nỗ lực nâng cấp thiết bị quân sự và mở rộng phạm vi chuẩn bị chiến tranh của họ. Tại một phiên điều trần của Thượng Viện Mỹ vào tháng Hai vừa rồi, Giám đốc FBI Christopher Wray đã cảnh báo những “giáo sư, nhà khoa học, sinh viên” của Tàu Cộng tất cả đều tham gia vào mạng lưới tình báo.
Năm 2015, nhà cầm quyền Tổng thống Obama đã ký Hiệp Ước An Ninh Mạng USA-China với Bắc Kinh, nhưng ba năm sau người ta phát hiện ra Tàu Cộng đã vi phạm gần như tất cả điều khoản của hiệp ước này và không ngừng hoạt động ngầm chống các tổ chức và các công ty Mỹ.
Dù các cơ quan tình báo Mỹ cung cấp nhiều bằng chứng rõ ràng, Washington vẫn chưa chặn lại hoặc trả đũa cho việc thâm nhập mạng đang lan rộng như sóng dữ từ Tàu Cộng. Các nhà phê bình chỉ ra rằng dù cho tính chất toàn diện của thoả thuận, hiệp ước này rõ ràng là không thể có hiệu lực. Không có lấy một biện pháp giám sát và thẩm tra rõ ràng nào. Thậm chí nếu nó là một thỏa thuận được diễn đạt rõ ràng, ít người có thể tin rằng Bắc Kinh sẽ tôn trọng nó vị họ vốn có thành tích kém cỏi tuân thủ các thỏa thuận trong quá khứ.
“Hãy xô đổ bức tường này xuống”
Ông Henry David Thoreau, triết gia người Mỹ thế kỷ 19, đã cảnh báo chúng ta từ lâu: “Con người đang trở thành công cụ của công cụ của họ”. Ngày nay, chúng ta phải đặc biệt cảnh giác khi các công cụ kỹ thuật đang ở trong tay của bất kỳ một chế độ độc tài nào – kỹ thuật mới, hơn bao giờ hết, sẽ trở nên kinh khủng hơn trong việc nô dịch hoá toàn thể nhân loại và cuối cùng tạo ra một xã hội thao túng tất cả.
Nhiều nhà nghiên cứu về Tàu Cộng thường so sánh Vạn Lý Tường Lửa của chế độ ĐCST với Bức tường Berlin trong kỷ nguyên Chiến Tranh Lạnh. Sau rốt, cả hai đều nhằm mục đích kìm giữ con người dưới sự kiểm soát hà khắc phía sau bức tường đồng thời ngăn cản họ vươn ra thế giới văn minh bên ngoài.
Khi bức tường Berlin sụp đổ vào ngày 9 tháng 12 năm 1989, cựu Tổng thống Đức Horst Kohler phát biểu: “Bức tường là một cấu trúc to lớn của sự sợ hãi. Vào ngày 9 tháng 12, nó đã trở thành nơi chốn của niềm vui”.
Ngày nay, nhân loại sẵn sàng đón chào một nhà lãnh đạo thế giới khác, với cùng quyết tâm và tầm nhìn như cựu Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, để nói lớn và rõ ràng về Vạn Lý Tường Lửa của Tàu Cộng: “Tập, hãy xô đổ bức tường này!”
Tác giả: Peter Zhang
(Ông Peter Zhang chuyên nghiên cứu về kinh tế chính trị Tàu Cộng và Đông Á. Ông tốt nghiệp Học Viện Nghiên Cứu Quốc tế Bắc Kinh, Trường Luật và Ngoại Giao Fletcher, Massachusetts, và là nghiên cứu sinh tại trường Kennedy của Đại học Harvard).
Viết theo The Epoch Times