Vài Suy Tư Về Ngày Quốc Hận 30 tháng 4, 2009
Ngày quốc hận thứ 34 (1975-2009) suy tư của cựu đại tá Hoàng Đạo Thế Kiệt, đại diện Khối Lập Trường Chung, bài nói chuyện tại cộng đồng San Diego, California tổ chức ngày Quốc Hận 30-04-2009
VÀI SUY TƯ VỀ NGÀY QUỐC HẬN 2009
Hoàng Ðạo Thế Kiệt
Từ 34 năm nay, mỗi năm người Việt tỵ nạn khắp nơi đều làm lễ tưởng niệm Ngày Quốc Hận 30-4-1975 (NQH), để đánh dấu ngày miền Nam tự do bị rơi vào tay cộng sản xâm lăng miền Bắc. Dĩ nhiên tổ chức NQH không đơn giản chỉ để tưởng nhớ đến nỗi đau thương tột cùng của dân tộc mà còn để tiếp tục công cuộc tranh đấu chống chế độ bạo tàn, thủ phạm của NQH, hiện còn đang thống trị dân ta. Chừng nào Việt cộng còn đó, còn chưa nhận tội và đền tội, và hơn nữa còn đang reo rắc hận thù, chừng đó NQH còn mang nặng ý nghĩa hận thù và đấu tranh. Ðây là điều đương nhiên, tất yếu.
Nói về ý nghĩa của NQH thì vô cùng tận. Ở đây người viết chỉ xin nói đến mấy suy tư chủ chốt chúng ta thường nghĩ đến trong mỗi mùa quốc hận, mà qua đó nổi lên ý nghĩa tại sao lại có NQH, tại sao phải duy tri tinh thần NQH, và người Việt tự do cần có thái độ thế nào về NQH.
Trước hết là về quy mô vô tiền khoáng hậu cuả NQH 30-04-1975
Chúng ta ai cũng biết là trong lịch sử nước ta đã có nhiều cuộc chiến tranh, cả ngoại xâm lẫn nội chiến, và đặc biệt đã có 3 quốc hận. Đó là Hận Sông Gianh, do Trịnh/Nguyễn phân tranh gây ra. Hận Bến Hải, do Việt cộng / Thực dân toa rập gây ra. Và Hận 30-4-1975, cũng do Việt cộng và cộng sản Nga-Hoa gây ra. Nhưng trong tất cả các cuộc chiến tranh và trong 3 quốc hận đó không có cuộc chiến tranh nào (kể cả với Tàu) và quốc hận nào đau thương bằng quốc hận 1975, bởi vì nó tàn hại nhất và khủng khiếp nhất. Nó là là hậu quả và cũng là nguyên nhân đưa đến cái chết của trên dưới 3 triệu người, đất nước bị tan hoang, dân tộc bị cùm kẹp, nghèo đói, lạc hậu, vào hàng nhất nhì thế giới.
Trong suốt thời gian từ khi cướp được chính quyền năm 1945 cho đến khi chiếm được miền Nam năm 1975, Việt cộng đã tàn sát hàng loạt đồng bào, nhất là qua các vụ cải cách ruộng đất, chôn sống Tết Mậu thân, tập trung cải tạo, thủ tiêu các công chức cán bộ Quốc Gia xã ấp. Tệ hại hơn nữa là các cuộc chiến do chúng gây ra: xâm lăng miền Nam, đánh Cam-bốt, bị Tàu cộng trả thù (cho Cam bốt)… Riêng trong cuộc xâm lăng miền Nam, chúng ta đã chứng kiến những cuộc bắn giết cực kỳ dã man đồng bào vô tội, đất nước khắp nơi bị tàn phá tan hoang.
Qua sự thôn tính miền Nam Tự do, Việt Cộng đã đưa cả nước ta vào tay cộng sản quốc tế, một bọn giặc chuyên lấy việc đấu tranh bạo lực làm chủ trương, cướp của giết người làm mục tiêu, và không loại trừ bất cứ biện pháp thâm độc nào để thống trị đồng bào. Hàng chục triệu người đã bị bóc lột đến tận xương tủy. Hàng triệu dân lành đã bị tàn sát, tù đầy, khủng bố. Hàng triệu người khác phải chạy trốn khỏi quê hương miền Bắc, và khỏi quê hương miền Nam, trong đó không biết bao nhiêu ngàn người đã phải bỏ thây trên đường tìm tự do.
Trong quá khứ gần 5000 năm lịch sử chưa bao giờ nước ta có một chính quyền tàn bạo hại dân hại nước đến mức độ thảm khốc như thế, chỉ thua có Khờ-me đỏ! Ðã vậy, trên 30 năm sau chiến tranh và sau NQH, ách thống trị của kẻ gây hận không những đã không chấm dứt mà còn tiếp tục đè nặng lên dân tộc ta, cho đến tận ngày nay, và ra cả đến hải ngoại…
Với quy mô tội ác Trời không dung Ðất không tha như thế, với tội bán nước hại dân như thế của đảng Việt Cộng, lịch sử và dân tộc không bao giờ có thể tha thứ cho chúng.
Thứ đến là chính sách hận thù của Việt cộng.
Chính sách hận thù của Việt Cộng trong quá khứ chắc ai cũng đã thấy. Chẳng hạn, chúng triệt hạ các giai cấp trí phú địa hào không phải vì chúng thù với cá nhân họ mà vì chính sách cuả đảng bảo phải giết hết thì chúng thẳng tay giết. Nhiều khi giết một cách tận tình, thích thú, coi như một thành tích. Cũng vậy, chúng giật mìn xe đó hay xe hoả không phải vì thù ai trên đó mà vì chính sách khủng bố của đảng, chủ trương phải giết để cho dân sợ và chính phủ gặp khó khăn.
Vì thế trước sau Việt Cộng rất quyết liệt và kiên trì trong việc thực hiện tội ác của chúng, đặc biệt là đối với các thành phần bất đồng chính kiến, đối nghịch với chúng, những người Quốc Gia. Ðiều này có nghĩa là: gây hận thù là việc tất yếu cuả đảng và chính quyền cộng sản.
Vì không thấu triệt điều đó nên có người rất ngạc nhiên là tại sao Việt Cộng một mặt ra sức kêu gọi xóa bỏ hận thù một mặt lại tiếp tục gây hận thù (với cả người sống lẫn người chết)?
Chỉ cần đặt vài câu hỏi ngược lại là ta sẽ thấy phần nào tại sao:
– Tại sao trước đây Việt Cộng ra rả chửi người tỵ nạn là ôm chân đế quốc, là đĩ điếm.. mà bây giờ lại đổi giọng, kêu gọi họ xóa bỏ hận thù? Vì Việt Cộng thật tâm từ bỏ chính sách hận thù hay chỉ vì tiền? Ai dám nói chúng không vì tiền mà vì đã bỏ chính sách hận thù?
– Nếu người Việt tự do dứt khoát không chịu hòa hợp hòa giải và đem người đem tiền về xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa cuả chúng thì liệu Việt Cộng có còn kêu gọi xóa bỏ hận thù nữa không? Ai dám trả lời là không? (Nghị quyết 36 đã dọa sẽ có biện pháp đối với những người ngoan cố).
– Việt Cộng đã hết gây hận thù với đồng bào trong nước chưa hay vẫn duy trì một chính sách đàn áp khủng bố vô cùng khắc nghiệt, bỏ tù, khủng bố bất cứ ai bất đồng chính kiến, đòi hỏi tự do? Ai dám bảo là chúng đã xóa bỏ hận thù, hòa hợp hợp hòa giải với người dân trong nước?
– Tại sao Việt Cộng lại trả thù cả những người đã chết, những Chiến sĩ VNCH vị quốc vong thân, nên đã tìm mọi cách để xóa bỏ dấu vết của nghĩa trang Quân đội Biên hoà, và hơn nữa còn áp lực cả chính phủ Mã-lai phải đục bỏ bia tưởng niệm thuyền nhân chết trên biển cả vì đi tìm tự do? Ðấy là xóa bỏ hận thù hay gây thêm hận thù?
Tóm lại chính sách của Việt Cộng là theo đuổi đến cùng để tiêu diệt người Quốc gia, xóa sạch mọi dấu vết liên hệ đến quốc gia, nhất là lá cờ Quốc-Gia và NQH. Hai biểu tượng đó làm cho chúng nhức nhối vì nhắc nhở cho mọi người không những nhớ đến các tội ác tày trời của chúng mà còn gây trở ngại cho các mưu đồ đen tối khác của chúng.
Chính vì vậy mà Việt Cộng và bọn tay sai đã nỗ lực kêu gọi người Việt hải ngoại xoá bỏ hận thù. Xoá bằng mọi thủ đoạn, kể cả ma giáo, lừa gạt, bịp bợm, nhằm làm cho ta quên đi NQH, hoặc lái ngày đó sang một ý nghĩa khác, hoặc tìm cớ không tổ chức NQH… Chúng tuyên truyền rằng chỉ những kẻ ăn trên ngồi trước của chế độ miền Nam mới hận thù chúng, rằng tưởng niệm NQH mãi cũng chẳng đi đến đâu, hãy quên đi qúa khứ đau thương, hãy xoá bỏ hận thù để về góp sức xây dựng cho quê hương giàu mạnh. Chúng còn đi xa hơn, cho tay sai mập mờ biến đổi NQH thành ngày giải phóng, ngày tự do…
Nhưng chúng đã thất bại, NQH vẫn được tổ chức ở khắp mọi nơi. Người Việt Quốc gia chân chính vẫn ghi nhớ NQH và vẫn tâm niệm góp phần để phơi bày tôi ác của Việt Cộng. Mong rằng trong mọi hoàn cảnh, mọi người chúng ta luôn nhớ đến ý nghĩa NQH, và cố nói cố làm bất cứ điều gì, dù nhỏ bé đến đâu, để duy trì NQH. Lập trường đó còn giúp chúng ta nhận diện được bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào, dèm pha, bài bác và cố tình kêu gọi xóa bỏ hận thù hay làm biến thái ý nghĩa NQH, là Việt Cộng nằm vùng hay tay sai của chúng.
Xóa bỏ hận thù hay phục thù rửa hận?
Luật pháp nước nào cũng trừng trị kẻ phạm tội, từ tội nhỏ đến tội lớn. Ðảng Việt Cộng đã bán nước hại dân, đã gây ra quốc hận và đang cỏn tiếp tục gây hận thù, thì tất cũng phải xử tội. Nhưng khác với tội phạm cá nhân, đây là tội phạm tập thể, hơn nữa lại là tập thể cầm quyền nên phải có biện pháp đặc biệt của toàn dân mới có thể phục thù xét xử được.
Nhưng rửa hận bằng cách nào cho có hiệu quả mới là điều quan trọng. Ðiều này đã được rất nhiều người quan tâm ở hải ngoại bàn đến trong suốt 34 năm qua nhưng rất tiếc chưa tìm ra giải pháp thích đáng. Tuy cùng nêu cao mục tiêu giải trừ cộng sản, có người chủ trương phải dùng vũ lực để đánh bại chúng; Có người chủ trương phải hòa hợp hòa giải với Việt cộng để dân chủ hóa chế độ của chúng; Và có người chủ trương phải quên hận thù để về hợp tác với chúng xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa của chúng. Trong 3 giải pháp đó chúng ta thấy ngay giải pháp thứ nhất không khả thi, giải pháp thứ ba chỉ là một sự đầu hàng. Còn giải pháp thứ hai thì đã và đang gây ra nhiều tranh cãi. Một thiểu số tán thành giải pháp này vì bảo đó là con đường duy nhất, đi với cộng sản để loại trừ CSVN. Nhưng tuyệt đại đa số người Việt hải ngoại, chống cộng dứt khoát, thì coi đây là một cạm bẫy của cộng sản, chỉ nhằm dụ người Quốc gia về làm đẹp, làm tay sai cho chúng, chứ không bao giờ chúng chịu chia xẻ quyền lực với ai, nhất là chịu dân chủ hóa chế độ. Dù sao đây chỉ là một mặt của vấn đề, mặt hải ngoại. Mặt chính là ở quốc nội. Ðồng bào trong nước sẽ tìm ra giải pháp thích đáng nhất để phục hận, giành lại tự do. Hải ngoại chỉ hỗ trợ quốc nội chứ không thể, và không có tư cách cũng như khả năng để thay thế quốc nội giải quyết vấn đề. Nhưng dù chọn giải pháp nào thì kết cục vẫn phải là rửa được quốc hận, không nhân nhượng không thỏa hiệp, có nghĩa là phải loại trừ được chế độ độc tài, tham nhũng và bất lực Việt Cộng. Tóm lại, với quy mô tội ác vô tiền khoáng hậu của Việt Cộng, với chính sách quyết liệt và kiên trì gây thù diệt thù của chúng, người Việt tự do không còn chọn lựa nào hơn là phải duy trì bằng được NQH, nuôi dưỡng tinh thần phục thù rửa hận, cho đến khi chế độ độc tài đảng trị Việt cộng bị giải trừ.
Ngày Quốc Hận thứ 34 (30-04- 2009) với hiện tình đất nước.
Ai theo dõi tình hình đều thấy rõ là trong thời gian qua, nhất là từ đầu năm nay, tình hình trong nước đã trở nên rất căng thẳng. Vụ hiện gây sôi động nhất là “bauxite” .
Vụ bauxite bắt đầu ra công khai từ khoảng cuối năm 2008, khi thủ tướng Việt Cộng Nguyễn tấn Dũng tuyên bố dự án bô xit là một chủ trương lớn cuả “đảng” và chính phủ, và loan báo là Trung cộng sẽ vào Cao nguyên Trung Việt để bắt đầu khai thác các mỏ bô xít tại Lâm đồng và Ðắc Nông (2 mỏ Nhân Cơ và Tân Rai). Rồi chẳng bao lâu sau, TRUNG CộNG đã đem hàng ngàn nhân công sang để bắt tay vào việc. Mọi sự đã diễn ra rất có lớp lang, chứng tỏ Việt Cộng và TRUNG CộNG đã bí mật dàn xếp với nhau vụ này từ lâu, nhưng vì lý do thầm kín nào đó nên không nói ra, cho đến khi khởi công khai mỏ.
Vì khai thác mỏ bô xít là một vấn đề vô cùng quan trọng, liên hệ đến mọi mặt, môi sinh, kinh tế, văn hoá, nhất là quân sự v.v. mà không được đảng cộng sản đem ra bàn, ngay quốc hội cũng không hề được hỏi đến, và chỉ được biết vào phút chót, nên dư luận đã vô cùng công phẫn. Dù Nguyễn tấn Dũng đã lớn tiếng cảnh báo rằng đây là chủ trương lớn của đảng và nhà nước, để tạo áp lực, bịt miệng những người chỉ trích và đòi hỏi phải đình chỉ việc khai thác. Nhưng mọi tầng lớp nhân dân, từ dân thường đến các nhà khoa học, các nhà trí thức, các tu sĩ, và cả giới cựu quân nhân, như công thần hàng đầu Võ nguyên Giáp cũng đã mấy lần lên tiếng phản đối. Một số đoàn thể tranh đấu cho tự do dân chủ và nhân quyền cũng ra tuyên cáo yêu cầu chính phủ phải chấm dứt ngay việc này. Mới nhất là gần 1000 người, trong đó có nhiều nhân sĩ, trí thức tiếng tăm hạng nhất trong nước cũng đã nhập cuộc, đòi phải xét lại dự án.
Trước làn sóng phẫn nộ của đồng bào, Việt Cộng phải cho mở mấy cuộc hội thảo nói là để cứu xét vấn đề. Nhưng cuộc hội thảo quan trọng nhất do viên phó thủ tướng Hoàng trung Hải chủ trì cũng chỉ đi đến kết luận là dự án có một số sơ hở cần phải điều chỉnh lại, nhưng nói chung vẫn đúng…có nghĩa là vẫn cứ tiến hành theo quyết định của “đảng”!.
Bên bênh vực dự án thì cho rằng đây là một chủ trương lớn của đảng và chính phủ, và đã được nghiên cứu kỹ về mọi mặt, chỉ có một ít sơ hở nhỏ, chỉ cần điều chỉnh lại là xong. Mới đây phe bênh còn nói rằng có cả công ty Mỹ tham dự dự án chứ không phải chỉ có Trung cộng…
Bên chống thì nói dự án rất tai hại về mặt môi sinh (hầu hết các nhà khoa học, văn hoá trong nước đều đồng ý như vậy), không có lợi về mặt kinh tế (giá thị trường không cao hơn giá thành, nhân công Tàu tranh việc của nhân công Việt), và nhất là việc đưa hàng ngàn, có thể hàng chục ngàn công nhân Tàu vào Cao Nguyên là điều rất bất lợi cho quốc phòng, nhất là sau những sự lấn át của chúng ở biên giới và biển cả. Tin nói có cả công ty Mỹ tham dự chỉ có tính cách chữa cháy, vì bây giờ mới thấy nói tới, và ở công trường khai thác thì chỉ thấy toàn người Tàu và chữ Tàu thôi.
Hiện tình đang tạm đứng ở đó, chờ đợi một biến cố khác quan trọng hơn. Chỉ lúc ấy mới biết “đảng” thắng, dân lùi, hay “đảng” lùi, dân thắng.
Dù sao đây là điều chưa từng xẩy ra: sự đối đầu công khai giữa người dân với đảng cộng sản.
Giọt nước làm tràn ly.
Vụ bô xít gần như đã trở thành “tụ điểm” cuả mọi sự phản kháng vì nó là nối tiếp của rất nhiều vụ “bô xít” khác. Nền độc tài ác trị của Việt Cộng đã gây ra không biết bao nhiêu tội ác đối với dân tộc. Gần đây là các vụ dâng đất hiến biển của nước ta cho kẻ thù truyền kiếp Bắc phương. Tàu cộng đã ngang nhiên bắt Việt Cộng phải cắt mấy trăm cây số vuông đất biên giới, kể cả Ải Nam-Quan và thác Bản Giốc cho chúng, bắt Việt Cộng phải mau hoàn thành việc cắm mốc biên giới để hợp thứ hóa phần đất bị xâm lấn. Hàng ngàn dặm vuông biển cả cũng đã được Việt Cộng hiến cho Tàu. Tất cả đều làm trong bóng tối, không một ai được biết, trừ bọn cầm đầu Việt Cộng. Khi Trung Cộng ngang nhiên chính thức sáp nhập các quần đảo Hoàng sa và Trường sa của ta vào lãnh thổ của chúng thì người dân quá uất hận, đã đứng lên biểu tình phản đối, nhưng lại bị chính bọn cầm quyền Việt Cộng thẳng tay đàn áp. Ðến vụ làm đơn xin LHQ xác nhận chủ quyền về thềm lục điạ cuả ta, kể cả 2 quần đảo Hoàng sa và Trường sa, đến nay chỉ còn 2 tuần nữa là hết hạn (13-5-2009) mà vẫn chưa thấy Việt Cộng làm, chắc sợ đụng tới Trung Cộng, vì chúng đã vẽ bản đồ công khai đưa các quần đảo Hoàng sa và Trường sa cuả ta vào lãnh thổ của chúng!
Sự sợ sệt của Việt Cộng đối với Trung Cộng đã làm nhục quốc thể đến độ không còn chấp nhận nổi.
Tuy mới đây Việt Cộng có tổ chức hội thảo về biển đông, và lại vừa tuyên bố ngày 25-4-2009 sẽ lập huyện Hoàng-sa, trực thuộc Ðà Nẵng, để cho đỡ bẽ mặt. Nhưng nếu chỉ làm trên giấy tờ cho có lệ, như đã từng nhiều lần lên tiếng xác nhận Hoàng sa và Trường sa là của Việt-Nam, rồi thôi không làm gì thêm nữa, trong khi Trung Cộng vẫn cứ lầm lì lấn chiếm từng phần của các quần đảo đó, thì trên thực tế cũng chẳng ích gì mà còn làm cho tình thế mỗi lúc mỗi suy đồi thêm.
Tất cả những uất hận bị dồn ép đó, cùng với những bất mãn chất chứa từ bao lâu nay của dân oan, nay có dịp được bùng lên trong vụ bô xít. Ðó là lý do mọi thành phần dân chúng, nhất là trí thức, đã đứng lên để phản đối chính quyền về vụ bô xít.
Sự thần phục Trung cộng.
Vụ bô xít làm cho người ta tự hỏi, trong khi không giải quyết được bao nhiêu khó khăn to lớn khác với Trung Cộng, tại sao Việt Cộng lại vác thêm gánh nặng bô xít hiểm nguy vào người? Chẳng lẽ Việt Cộng không hiểu được tính cách ‘bùng nổ’ của vụ này, và không biết nó sẽ đi đến đâu? Có thể nói thành công hay thất bại cũng đều bất lợi cho cả đôi bên, nhất là bên Việt Cộng và Việt-Nam.
Nhìn những gì đã xẩy ra từ trước đến nay giữa 2 bên Việt/Tàu cộng, người ta buộc lòng phải nghĩ rằng Việt Cộng đã bị Trung Cộng khống chế, chúng bắt làm những điều bất lợi, nhục nhã đến đâu cũng phải làm. Nhưng theo thiển ý thì đây là một sự “miễn cưỡng bị nắm đầu”, không phải vì Việt Cộng hèn kém mà chỉ vì quyền lợi bản thân của đảng Việt Cộng, đúng hơn của đám chóp bu Việt Cộng. Chắc nhiều người còn nhớ, trước đây không lâu Việt Cộng đã từng mấy phen chọi nhau với Trung Cộng mà không sợ, thì cớ gì bây giờ lại sợ quá đỗi như vậy, trong khi hoàn cảnh của thế giới ngày nay khó cho phép Trung Cộng đem quân xâm lăng Việt-Nam như trước? Câu trả lời là, lúc đó Việt Cộng dám chống Tàu vì được Liên bang Sô viết che chở. Liên bang Sô viết thì vừa là cộng sản, vừa ở xa, lại vừa đang chống nhau với Trung Cộng, nên nhờ Liên Bang Sô Viết (LBSV) là đương nhiên, vì theo mà không sợ mất quyền. Còn bây giờ tuy Mỹ lớn mạnh hơn LBSV trước kia cũng như Trung Cộng hiện nay, nhưng Việt Cộng biết rõ nhờ Mỹ thì Mỹ chỉ lo buôn bán trục lợi chứ không bảo đảm che chở cho chế độ Việt cộng tồn tại như Tàu. Cho nên Việt Cộng đành phải đi theo Trung Cộng để Trung Cộng che chở cho bám giữ chính quyền, dù bị bọn này bóc lột vô cùng trắng trợn, dã man, và bị dân chúng nguyền rủa thậm tệ. Như thế là Việt Cộng đã tính toán kỹ lưỡng và đã chọn lựa: thà cắt bỏ những cao điểm trọng yếu ở biên giới và nhượng những vùng biển rộng lớn lao đầy tài nguyên cho Tàu chứ không theo Mỹ để giữ nước mà mất quyền. Chính sách đi giây cuả Việt Cộng là: o bế để lợi dụng Mỹ, nhưng đi với Tàu để giữ quyền bính.
Từ đó suy ra ta có thể đi đến một kết luận khá vững chắc là, Việt Cộng sẽ bám quyền bằng mọi giá, kể cả dâng đất hiến biển, cho khai mỏ, cho dân Tàu ồ ạt sang làm ăn sinh sống ở Việt-Nam v.v..Còn dân tộc Việt-Nam nếu không muốn bị nạn Tàu cộng xâm thực lần mòn, không muốn bị Việt Cộng làm nhục, thì chỉ còn có cách nổi dậy lật đổ chúng. Mong rằng sẽ có một cơ hội giúp cho dân ta rửa được cái hận 1975, khi dân chúng nổi lên lật đổ bạo quyền và quân đội chợt tỉnh ngộ về vai trò của mình, còn TRUNG CỘNG thì bận tay với Mỹ.
Không khí đấu tranh trong Ngày Quốc Hận 2009 trước hiện tình đất nước
Tuy việc tổ chức tưởng niệm và nuôi dưỡng tinh thần NQH hiện nay chủ yếu là do các cộng đồng người Việt tự do hải ngoại thực hiện, nhưng ai cũng biết QH 1975 là cho chung cả dân tộc chứ không cho riêng dân miền Nam. Ngày đó đánh dấu một trang sử đen tối nhất của cả nước. Một chế độ cực kỳ tàn bạo đã vây phủ khắp nơi. Mất miền Nam là mất một hy vọng tràn trề để giải thoát đồng bào miền Bắc khỏi bàn tay sắt máu Việt Cộng. Nhưng lịch sử dân tộc đã chứng tỏ không bạo chúa nào có thể tồn tại mãi mãi. Người dân đang dần dần đứng lên để đòi lại tự do dân chủ mà bọn cầm quyền cộng sản đã cướp đoạt của họ từ bao năm qua. Những biến chuyển mới đây đã cho thấy đồng bào không còn chịu đựng được nữa những áp bức và tủi nhục mà bạo quyền Việt Cộng gây ra. Mối liên hệ bạo quyền / người dân đã đến lúc phải được giải quyết.
Là người Việt tỵ nạn cộng sản, chúng ta không khỏi vui mừng khi được thấy đồng bào quốc nội can đảm đứng lên đòi đảng cộng sản phải tôn trọng tự do và lắng nghe tiếng nói của người dân. Nếu toàn dân đồng lòng nắm lấy thời cơ, đẩy mạnh cuộc tranh đấu thì sẽ chắc chắn sẽ tạo được áp lực với chính quyền, mở rộng được con đường tranh đấu cho tự do, dân chủ.
Về phần người Việt hải ngoại, nếu chúng ta quan niệm rằng quốc nội là chính, và nay quốc nội đang chuyển mình, đang mở ra một vận hội mới mà người Việt hải ngoại hằng mong đợi, thì thiết nghĩ chúng ta cũng cần phải kịp thời có thái độ tích cực hơn để làm tròn nghĩa vụ của mình. Người viết muốn nói đến cái quyết tâm vào việc.
Tuy hải ngoại cũng có những khó khăn lớn lao vì nếp sống tự do, vì sự lệ thuộc vào tình hình địa phương, và nhất là vì sự đánh phá của bọn cộng sản nằm vùng và tay sai, nhưng cũng đã đến lúc mọi người, mọi tổ chức của người Việt Quốc Gia hải ngoại phải có biện pháp thích đáng để ổn định cộng đồng và yểm trợ quốc nội.
Trong phạm vị này, theo thiển ý, chúng ta có thể đề ra những biện pháp cụ thể, khả thi, mà nếu dứt khoát thực hiện thì thế nào cũng có kết quả khả quan, phần nào ổn định được cộng đồng và yểm trợ được quốc nội hữu hiệu hơn. Với mục đích trên, chúng tôi xin đưa ra đề nghị 3 điểm như sau để góp ý với những đồng hương quan tâm:
-
Thứ nhất là có tiêu chuẩn rõ ràng để phân định ta, địch. Chúng tôi đã viết khá rõ về điểm này trong bài “Nhu Cầu Bảo Vệ Lằn Ranh Quốc/cộng”, phổ biến ngày 18-12-2002, và bài “lập Trường Chung” phổ biến ngày 15-5-2003.
-
Thứ hai là cô lập, tẩy chay bọn nằm vùng và tay sai. Ðiểm này cũng đã được trình bày trong bài Lập Trường Chính trị” phổ biến ngày 1-1-2006, và nhiều bài khác tiếp theo;
-
Và thứ ba là tạo một sự phối hợp hoạt động (chứ không phải thống nhất) giữa các tổ chức người Việt Quốc Gia với nhau, để có đủ khả năng tranh đấu hữu hiệu với Việt Cộng.
Ðây là những việc khả thi, do ta chủ động, có thực hiện được hay không, thành hay bại, là do chính mình chứ không phải do ai khác. Rửa hận và tranh đấu cho tự do dân chủ không thể mãi mãi chỉ bằng lời nói hay bài viết. Phải có cả việc làm. Nếu ta có một lập trường chống cộng thực sự, và quyết tâm thực hiện thì sẽ nắm được chìa khoá thành công. Bằng không, nếu cứ bỏ lửng, thì tình trạng sẽ suy đồi thêm. Còn nếu nhẹ dạ, nghe theo luận điệu xóa bỏ hận thù, quên NQH (cũng như bỏ chào cờ Quốc Gia), thì sẽ không còn vấn đề rửa hận nữa, không còn vấn đề tranh đấu nữa, và như thế không khác gì chấp nhận vĩnh viễn chế độ độc tài đảng trị, vừa bạo tàn vừa tham nhũng lại vừa bất lực của Việt Cộng.
Hoàng Đạo Thế Kiệt