Tại sao Tháng 3 năm 2018 là một tháng năng động trong việc cân bằng Việt Nam-Trung Quốc ở Biển Đông.
Hà Nội bận rộn vào tháng 3 với những tác giả đề xướng “Khu vực Ấn Độ – Thái bình Dương hoà bình và thịnh vượng”.
Đối với một quốc gia vốn thường ưa ngoại giao tầm mức thấp để tránh xung đột không cần thiết với một nước láng giềng lớn hơn ở phía Bắc, Việt Nam vào tháng 3 này đã công khai tham gia vào một loạt các hoạt động nhằm tăng cường khả năng chống lại Trung Cộng ở Biển Đông. Tháng 3 đã đưa ra một số chỉ số trong quá trình chuyển đổi trong chiến lược quốc phòng của Việt Nam để giải quyết mối quan ngại ngày càng tăng về sự bành trướng và quyết đoán của quân đội Trung Cộng trong khu vực.
Ngày 2 tháng 3, Chủ tịch nước [CSVN] Trần Đại Quang thăm và gặp Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi. Vào ngày 3 tháng 3 trong một tuyên bố chung, hai bên cam kết tiếp tục hợp tác quốc phòng của họ bao gồm các cuộc đối thoại cấp cao, mua sắm vũ khí, ghé cảng hải quân và tàu bảo vệ bờ biển và các dự án xây dựng năng lượng. Quang và Modi cũng khẳng định lại tầm quan trọng của việc duy trì tự do hàng hải và trên không tại Biển Đông cũng như giải quyết các tranh chấp (một cách) hòa bình và hợp pháp.
Tuy nhiên, nổi bật nhất là quyết định của Hà Nội trong việc đưa ra thêm một bước và xác nhận nhu cầu Ấn Độ và Việt Nam phải hợp tác để bảo đảm “một khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương hòa bình và thịnh vượng” – đây dường như là lần đầu tiên một nhà lãnh đạo Việt Nam làm như vậy. Chắc chắn, Quang đã có thái độ đối nghịch với các lợi ích chiến lược địa lý của Ấn Độ, với lập trường thẳng thắn của New Delhi trong những năm trên Biển Nam Trung Hoa. Tuy nhiên, việc sử dụng ngôn ngữ này của Quang – hoặc sự thay đổi của ông đối với “Ấn Độ – Thái Bình Dương” mà ông đã sử dụng trong một bài phát biểu gửi đến một nhóm chuyên gia Ấn Độ vào ngày 4 tháng 3 – cho thấy Hà Nội sẵn sàng chấp nhận ý tưởng mạnh mẽ nhất mà Mỹ phải làm việc cùng nhau qua các vùng để cân bằng và ngăn chặn các hoạt động của Bắc Kinh.
Sự công nhận của Việt Nam đối với Ấn Độ-Thái Bình Dương cho thấy nó gần hơn với mục tiêu của “Đối thoại an ninh Quadrilateral” hoặc “Quad” – một quan hệ đối tác chiến lược giữa Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản và Úc để giải quyết thách thức đang gia tăng của Trung Cộng. Làm như vậy là đáng kể nhưng không hoàn toàn đáng ngạc nhiên khi Việt Nam đang nhanh chóng tăng cường quan hệ quốc phòng song phương với tất cả các nước thành viên Quad.
Ngày hôm sau, ngày 5 tháng 3, Hà Nội hoan nghênh chuyến viếng thăm đầu tiên của Hoa Kỳ, chiếc USS Carl Vinson đến Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc. Quyết định của Việt Nam để nhận được dấu hiệu mang tính biểu tượng nhất của sức mạnh của Mỹ đối với bờ biển là một tín hiệu rõ ràng về việc ngăn chặn Trung Cộng. Cuộc thăm viếng đã tập trung chú ý vào mối quan hệ quốc phòng của Hoa Kỳ-Việt Nam, như tôi đã nói, đã được đưa ra từ tháng 5 năm 2016 khi Tổng thống Obama viếng thăm Hà Nội và bãi bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng Giêng để hoàn thành chi tiết về “cuộc gọi” tàu sân bay, Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis đã đề cập đến Việt Nam và Mỹ là “các đối tác có cùng chí hướng”, cho thấy các mối quan hệ quốc phòng song phương đang tiến triển. Về phần mình, Bắc Kinh đã bác bỏ những hàm ý địa chính trị.
Từ ngày 6 đến 13 tháng 3, Việt Nam là một trong 16 nước tham gia các cuộc tập trận hải quân chung tổ chức hai năm một lần. Được Ấn Độ hỗ trợ, ấn bản năm 2018 đã diễn ra ở Ấn Độ Dương ở cảng Port Blair ở Quần đảo Andaman và Nicobar. Đáng chú ý, đây là lần đầu tiên Việt Nam được công nhận tham gia vào Milan mặc dù có những khoản xung đột về mức độ tham gia vào năm 2012 (Việt Nam đã đưa ra một tuyên bố từ chối tham gia vào năm 2012 và những người đối thoại cho tôi biết rằng trong khi Hà Nội có thể cử một quan chức cao cấp hải quân vào năm 2012, không bao giờ tham gia vào các cuộc tập trận thực tế).
Ngoài ra, Milan xảy ra trong một cuộc khủng hoảng chính trị đang diễn ra ở Maldives. Bắc Kinh tài trợ cho Tổng thống đương nhiệm, Abdulla Yameen, và Ấn Độ quan ngại rằng sự thúc đẩy này có thể chuyển Yameen để Trung Cộng tiếp cận Maldives. Maldives có tầm quan trọng về địa lý chiến thuật vì nó cung cấp lợi thế ở giữa Ấn Độ Dương và dọc tuyến đường giữa Vịnh Aden và eo biển Malacca. Như vậy, sự tham gia của Việt Nam vào Milan đã đến giữa những căng thẳng giữa Trung Cộng và Ấn Độ trong lĩnh vực hàng hải.
Ý tưởng cho rằng Việt Nam sẽ gia nhập Ấn Độ trong các cuộc tập trận hải quân chung trong thời điểm đặc biệt nhạy cảm này phải là một viên thuốc cay đắng để Trung Cộng nuốt chửng, nhưng thật thú vị, một số phản ứng từ Bắc Kinh lại tập trung vào sự tức giận của họ đối với Ấn Độ. Một bài bình luận xuất hiện trong tờ Global Times của nhà nước đã ghi nhận rằng “Việt Nam là một bàn đạp cho lực lượng hải quân Ấn Độ mở rộng ảnh hưởng từ Ấn Độ Dương sang Tây Thái Bình Dương.” Tác giả giải thích rằng New Delhi đang thực hiện điều này một phần, bằng cách liên quan đến Việt Nam ở Milan. Mặc dù vậy, bằng cách tham gia Milan 2018, Hà Nội đã gửi một thông điệp rõ ràng tới Trung Cộng rằng Việt Nam sẽ tăng cường quan hệ đối tác quân sự có thể được tận dụng để duy trì hiện trạng ở Biển Đông, nếu Bắc Kinh tiếp tục thách thức nó.
Cuối cùng, từ ngày 12 đến 18 tháng 3, Thủ tướng nhà nước [CSVN] Phúc đã tới Tân Tây Lan theo sau là Úc.
Trong thời gian thăm Tân Tây Lan, Phúc và Thủ tướng Jacinda Ardern cam kết sẽ nâng cao mối quan hệ với tầm nhìn chiến lược đến năm 2019. Trong khi Phúc ở Canberra, ông và Thủ tướng Malcolm Turnbull nâng cao quan hệ song phương với quan hệ chiến lược , mặc dù bản tuyên bố chung của Tân Tây Lan và Úc không liên quan đến “Ấn Độ-Thái Bình Dương”, nhưng họ cũng đã nhấn mạnh những nguyên tắc tương tự được áp dụng bởi khái niệm, bao gồm nhu cầu duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông cũng như tôn trọng các quy trình pháp lý và ngoại giao để giải quyết tranh chấp. Điều này một mình chứng minh cho Bắc Kinh rằng Việt Nam có các đối tác sẵn sàng ủng hộ vị trí của mình trong các diễn đàn khu vực. Nhưng bằng cách tăng thêm quan hệ song phương với Úc và lên kế hoạch tương tự với Tân Tây Lan, Hà Nội sẽ được hưởng lợi từ việc trao đổi quốc phòng với các nước phương Tây sẽ hỗ trợ để chuyên nghiệp hóa lực lượng hải quân và lực lượng Cảnh Sát Biển. Vậy chúng ta nên làm gì làm cho những phát triển mạnh mẽ này vào tháng ba? Hoàn toàn hợp lý khi đánh giá rằng tháng Ba bận rộn của Việt Nam nhằm mục đích cải thiện vị thế phòng thủ của đất nước bắt đầu vào mùa khai thác ở Biển Đông, bắt đầu vào tháng 5. Giai đoạn này có xu hướng làm tăng căng thẳng Trung Cộng – Việt Nam như ngư dân và bảo vệ bờ biển từ mỗi bên có mối liên hệ lớn hơn. Thêm vào đó, vào tháng 5 năm 2014, Bắc Kinh đơn phương đã đặt một giàn khoan dầu vào vùng biển đang tranh chấp, kết quả là một cuộc đụng độ hàng hải kéo dài hàng tháng liên quan đến việc bảo vệ bờ biển Trung Cộng đang tấn công tàu của Việt Nam.
Đây là một thảm hoạ cho Hà Nội, và có lẽ là một thời điểm chuyển đổi khiến nó càng tăng cường ngoại giao quốc phòng với các đối tác có thể hỗ trợ – ngay cả khi chỉ bằng lời nói – để đưa Trung Cộng xuống dốc trong trường hợp xảy ra một sự kiện khác. cuộc bầu cử của Rodrigo Duterte vào tháng 6 năm 2016 tại Phi-líp-pin đã thúc đẩy Việt Nam suy nghĩ lại cách tiếp cận. Duterte đã tìm chỗ dựa với Bắc Kinh về các đặc điểm tranh chấp và đưa ra phán quyết của Tòa án Trọng tài được ban hành theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) nhằm ủng hộ Manila, để lại Việt Nam là nước duy nhất phản đối chủ quyền đối với Trung Cộng ở Biển Đông. Sự kết hợp của hai yếu tố này làm cho Hà Nội có thể tiếp tục củng cố vị trí của mình trong khu vực thông qua ngoại giao quốc phòng. Tuy nhiên, điều quan trọng cần ghi nhận là nỗ lực chung của Hà Nội trong việc tăng cường quan hệ quốc phòng với các quốc gia có thể giúp Việt Nam: Biển Đông sẽ không nhất thiết phải chuyển thành rủi ro lớn hơn trong khu vực. Chẳng hạn, Hà Nội, trước áp lực của Trung Cộng, một lần nữa lại quyết định hủy bỏ hoạt động khoan dầu của công ty năng lượng Repsol Tây Ban Nha trong vùng biển đang tranh chấp lần thứ hai trong năm. Điều này cho thấy Hà Nội sẽ tiếp tục ưu tiên và quản lý các mối quan hệ với Bắc Kinh ở Biển Đông, ngay cả khi đồng thời cố gắng đạt được lợi thế bằng cách thu hút các đối tác khác để bù đắp cho sự phát triển của Trung Cộng.
Tác giả: Derek Grossman (1)
Ngày 23 tháng 3, 2018
The Diplomat/Flashpoints
(1) – Derek Grossman là một nhà phân tích quốc phòng cao cấp tại RAND Corporation phi lợi nhuận . Trước đây ông từng phục vụ như là tình báo hàng ngày của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Châu Á Thái Bình Dương tại Lầu năm góc.