Sai lầm trong chính sách đối ngoại của Việt nam đã đến lúc phải trả giá

Câu chuyện Biển Đông một lần nữa lại nóng bừng lên, sau khi chính quyền Trung quốc chính thức đưa giàn khoan HD-981 vào trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam và chỉ cách bờ biển Việt nam 120 hải lý. Điều đó chứng tỏ Trung quốc đang có những bước đi mới rất quyết đoán rất nguy hiểm và chắc chắn tất cả các bước đi này đều được họ tính toán một cách kỹ càng.

Điều này đã khiến cho không ít người giận dữ và hỏi rằng tại sao chính quyền Việt nam lại làm ngơ để Trung quốc hoành hành trên Biển Đông như trong ao nhà của họ, vì theo họ đây chắc chắn là một sự việc nghiêm trọng và có thể ví như giặc đã vào trong nhà, nghĩa là Trung quốc đã chính thức xâm lược lãnh hải của Việt nam. 

Trên thực tế thì vị trí tọa độ của giàn khoan HD-981 nếu xét theo quy ước về thềm lục địa tính từ quần đảo Hoàng sa hiện tại thuộc quyền quản lý của Trung quốc, thì giàn khoan này vẫn nằm trong thềm lục địa của quần đảo Hoàng sa mà Trung quốc cho là của họ. Nếu vậy thì đương nhiên Trung quốc có quyền đặt giàn khoan trên mọi khu vực thuộc phạm vi này. Nhưng một khi khu vực này vẫn đang là khu vực tranh chấp, thì phía Trung quốc không có quyền đưa giàn khoan vào vùng biển này. 

Do vậy việc cho rằng thực chất đây được coi là hành động đối phó của Trung quốc, vì thông báo của Cục Hải sự Trung Quốc được đưa ra ngay sau khi có tin Việt Nam vừa đề nghị giao thêm hai lô cho Công ty ONGC Videsh của Ấn Độ thăm dò dầu khí chỉ là bao biện và khó đứng vững. Cho dù trước đây Việt Nam từng đề nghị giao cho OVL năm lô để công ty này tổ chức thăm dò dầu khí ở biển Đông vào tháng 11.2013 và theo báo chí nước ngoài thì OVL chỉ chọn một trong 5 lô mà Việt Nam đề nghị giao hồi năm ngoái và đang thẩm định hai lô mà Việt Nam mới đề nghị giao thêm.

 

Giàn khoan mở màn cho một giai đoạn xâm lấn mới?

Việc tranh chấp trong việc khai thác dầu khí ở khu vực này không phải là chuyện mới, mà trước đây đã có chuyện một số  các công ty dầu khí của Hoa kỳ, Anh… đã đơn phương hủy bỏ các hợp đồng thăm dò và khai thác với Việt nam do chịu sức ép từ phía Trung quốc. Điều đó khiến Trung quốc càng ngày càng được thể lấn tới. Không chỉ thế, còn nhớ trong nhiều năm gần đây Trung quốc còn ra sức cản trở các hoạt động tìm kiếm, khảo sát thăm dò địa chấn của các tàu nghiên cứu của Việt nam, cụ thể là các hành động cắt cáp của các tàu thăm dò như Viking, Bình Minh 2… các năm 2011 và 2012. Hành động đó cộng với các hoạt động khác trên Biển Đông giới được quan sát cho rằng tất cả những động thái này đều nhằm hỗ trợ cho yêu sách đòi chủ quyền gần như toàn bộ vùng biển này của Trung quốc đã được cụ thể hóa trong đường lưỡi bò chín đoạn mà họ đơn phương đưa ra. 

Tuy nhiên để đáp trả các hành động này từ phía Trung quốc thì chính quyền Việt nam chỉ có các phản ứng yếu ớt, lấy lệ cho qua với chiêu bài cũ rích và lặp đi lặp lại. Đó là luôn luôn chỉ bài ca: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình được xác định phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.”

Thử hỏi rằng với cách phản ứng lặp đi lặp lại như vậy trong nhiều năm qua, chính quyền Việt nam đã đạt được một kết quả gì đáng gọi là khả quan hay chưa? Chỉ bằng biện pháp thông qua con đường ngoại giao để phản đối, chỉ trích thì liệu có thể bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ và chủ quyền của quốc gia? Do đó vấn đề đặt ra bây giờ là tại sao chính quyền Việt nam không đưa vấn đề Biển Đông ra kiện Trung quốc trước tòa án quốc tế như Philippines đã và đang tiến hành? Vì chỉ có bằng các hành động kiên quyết, cụ thể và sức ép quốc tế như vậy mới có thể hy vọng ngăn chặn chính sách vết dầu loang trong việc bành trướng lãnh hải của Trung quốc trên Biển Đông. 

Đây có thể nói là hệ quả của vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng sa đã bị mất vào tay Trung quốc từ năm 1974 nhưng không được giải quyết một cách cụ thể và rõ ràng trong suốt thời gian 40 năm qua. Vì theo luật quốc tế, nếu có tranh chấp lãnh thổ mà giữa các kháng nghị có 1 khoảng gián đoạn 50 năm hoặc nhiều hơn thì những đòi hỏi lãnh thổ trở nên vô hiệu. Nếu như vậy, Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc chiếm 40 năm và từ đó đến nay Việt Nam chưa gửi bất kỳ một kháng nghị, hoặc đơn kiện nào lên Tòa án Quốc tế về luật Biển. Như vậy Việt Nam chỉ còn 10 năm nữa để tiến hành, nếu như trong vòng 10 năm tới phía Việt nam không có bất kỳ một kháng nghị hay đơn kiện nào thì theo Luật biển quốc tế coi như Việt Nam chấp nhận mất Hoàng Sa và một số đảo ở khu vực Trường Sa vĩnh viễn về tay Trung Quốc. 

Hiện nay, với đường lối đối ngoại giữa Việt nam và Trung quốc bị trói chặt vào nền tảng quan hệ láng giềng hữu nghị theo tinh thần bốn tốt và khẩu hiệu 16 chữ vàng và trong suốt một thời gian dài điều đó đã và đang bị phía Trung quốc triệt để khai thác trong quan hệ nước cộng sản lớn đối với một nước cộng sản nhỏ để lấn lướt, kể cả việc xâm chiếm lãnh thổ. Trong lúc các lãnh tụ cộng sản thì nhu nhược, cúi đầu trước các yêu sách và đòi hỏi hết sức ngang ngược của nhà cầm quyền Trung quốc đi từ các nhân nhượng này đến các nhân nhượng khác. Nhưng ngược lại trong chính sách đối nội thì vấn đề Biển Đông luôn được coi là vấn đề nhạy cảm, là vùng cấm mà người dân không có quyền quan tâm đến, mà để “Đảng và nhà nước lo”. Với tình hình như vậy thì nguy cơ mất vĩnh viễn quần đảo Hoàng sa và một số đảo thuộc quần đảo Trường sa là điều tương đối chắc chắn. Nhất là trong lúc này nếu như Hoa kỳ đã bật đèn xanh cho Trung quốc trong chính sách Biển Đông để đổi lấy các chính sách có lợi cho họ từ phía Trung quốc, điều mà Hoa kỳ đã từng bắt tay với Trung quốc để bỏ rơi VNCH vào năm 1972. Nếu điều đó thực sự xảy ra thì có nghĩa là trong một tương lai gần Trung quốc sẽ lần lượt chiếm hết các đảo trong khu vực Biển Đông của Việt nam, điều đó cũng có nghĩa là Trung quốc đã làm chủ hoàn toàn Biển Đông. 

Trở lại vấn đề giàn khoan HD-981 của Trung quốc nằm trong vị trí các lô mà Việt nam đã cho Công ty ONGC Videsh của Ấn Độ thăm dò dầu khí. Nếu như lần này phía Trung quốc tìm mọi cách để gây áp lực để buộc Công ty ONGC Videsh tự động đơn phương ngưng hợp đồng để rút khỏi việc khai thác và thăm dò dầu khí trong khu vực thềm lục địa của Việt nam thì chuyện gì sẽ xảy ra? Nếu không phải là việc phía Việt nam bị vô hiệu hóa và phải bất lực trong việc tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí trong phần thềm lục địa thuộc chủ quyền hợp pháp của mình. Và cứ như thế, nếu lần lượt có nhiều các giàn khoan cỡ lớn như DH-981 án ngữ trong khu vực quần đảo Hoàng sa và Trường sa thì điều gì sẽ xảy ra đối với Việt nam? 

Việc Trung quốc đưa dàn khoan HD-981 vào thềm lục địa của Việt nam cách bờ biển Việt nam chỉ 120 hải lý cùng với việc Việt nam ngày càng lệ thuộc vào Trung quốc về kinh tế, đặc biệt là những dự án đầu tư của Trung quốc ở các vùng địa bàn chiến lược của Việt nam đã khiến người ta không thể không nghi ngờ về sự tồn tại của vùng biển cũng như các hòn đảo thuộc chủ quyền của Việt nam. 

Sai lầm trong chính sách đối ngoại của Việt nam đã đến hồi phải trả giá. 

Ngày 05 tháng 5 năm 2014

Blogger Kami

Sáng Lập Đảng

Nguyễn Thái Học người Sáng Lập Việt Nam Quốc Dân Đảng

Tìm Bài Theo Tháng

Tự Điển Hỏi Ngã Tiếng Việt