Sách: Nguyễn Thái Học – Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nhượng Tống
Sách Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng của học giả Nhượng Tống gồm 43 chương, kể lại một cách trung thực và trách nhiệm của người cầm bút. Đây là tài liệu lịch sử quý giá, xin mời qúy vị đọc để thấy tinh thần yêu nước của tiền nhân chúng ta trong sáng đến mực nào! tấm gương yêu nước trong sáng chói rọi đến bao thế hệ mai sau. Sau đây chương XXXV, XXXVI, XXXVII (35-37)
[Bấm vào đây đọc các chương trước]
CHƯƠNG XXXV
Anh Chánh Tôn
Được tin các tỉnh mạn ngược đã khởi nghĩa, quân Pháp ở Hà Nội canh phòng rất nghiêm mật. Họ đặt thêm ra một cái bót gác ở đầu cầu sông Cái, để khám xét các người qua lại trên cầu. Chưa thấy anh em mạn xuôi khởi sự, anh Lương Ngọc Tôn, tức Chánh Tôn (vì anh là chánh hội làng Hữu Bùi, huyện Gia Bình) lấy làm sốt ruột, liền đi ô tô hàng để sang Bắc, định xem công việc ở hạt mình thu xếp ra sao. Ô tô đến đầu cầu, tên đội Xanh giơ ni ngăn lại để khám hành khách trên xe. Anh không thể để cho chúng khám được, vì lúc nào anh cũng mang khí giới trong mình. Sẵn súng sáu trong tay, anh liền ban cho tên đội này hai phát. Tên đội ngã lăn ra! Anh bước lên cầu cắm cổ chạy! Bọn cảnh sát hô hoán! Bọn người trong phố Ngọc Lâm xô nhau ra đuổi! Anh vừa chạy, vừa rắc giấy bạc ra đường cho chúng nhặt để chúng khỏi chạy theo làm rắc rối! Rồi anh chạy xuống ven sông… Anh phải tỳ súng vào mang tai, tên lái đò mới chịu chở. Qua sông, anh lại bị lũ thợ làm ở lò bát Thanh Trì đón bắt. Bực mình, anh quay lại cầm súng bắn chết luôn ba đứa! Nhưng đạn hết, anh đành phải nộp mình cho quân Pháp, vì cớ ngu si đê tiện của lũ nhà quê.
CHƯƠNG XXXVI
Phó Đức Chính Bị Bắt
Anh Phó Đức Chính quê ở Đa Ngưu. Tốt nghiệp Công Chánh ra, anh được bổ sang Lào. Năm 1929, việc Đảng bị tiết lộ, anh bị bắt ở Lào về. Anh kém anh Học bảy tuổi, năm ấy mới vừa đúng 20. Coi là trẻ con, Bờ-rít tha cho miễn nghị. Được tha rồi, anh trả hết những món kỷ niệm cho người hôn thê là cô Thắm ở Thanh Hóa. Một lần sau, anh lại bị bắt ở một cơ quan với các đồng chí, nhưng rồi lại được tha. Anh đã nói dối là ở nhà quê, về Hà Nội cân thuốc, ngẫu nhiên gặp bạn cũ mới vào chơi, chứ không có chuyện gì cả. Kỳ thực là từ khi ở Lào về, anh làm việc cho Đảng rất hăng hái. Không mấy khi là anh không ở bên cạnh anh Học hay anh Song Khê. Chúng ta đã rõ anh với việc khởi nghĩa Yên Bái là thế nào. Cố nhiên những chỉ huy trong lúc đánh là mấy anh cai Nguyễn Thanh Thuyết, Ngô Hải Hoàng là mấy anh Đồ Thúy, Giáo Liên, Nguyễn Văn Khôi… thế nhưng tất cả những anh ấy đều thuộc dưới quyền anh tiết chế.
Việc Yên Báy thất bại rồi, cái hùng tâm của Anh chưa chịu chết! Anh cùng các đồng chí ở Yên Báy thoát vòng vây ra được, lập tức lại đi liên lạc các anh em, tìm tòi lấy thực lực, định hạ thành Sơn Tây. Thế nhưng “tính việc ở người, thành việc ở Trời”. Ngày 13, bao nhiêu bom dao để ở Quảng Húc đều bị quân địch khám bắt đem đi. Rồi chiều ngày 15, anh cùng Cai Tân, Nguyễn Văn Khôi đương bàn việc ở nhà anh Quản Thanh tại làng Nam An, tổng Cẩm Thượng, huyện Tùng Thiện thì bị chúng bắt trói, giải về Hà Nội…
Khi tòa án của quân địch đã khép vào tội tử hình rồi, tên chủ tịch Đề Hình hỏi Anh có xin chống án không? Thì Anh cười và đáp:
– Đời con người ta làm có một việc, hỏng cả một việc, sống nữa làm chi?
Tính ra Anh ở đời khoảng chừng hai mươi mốt năm thôi. Thế nhưng tôi tin rằng linh hồn Anh đã hòa hợp với Quốc hồn mà cùng với non sông cùng thọ.
CHƯƠNG XXXVII
Tấm Lòng Trách Nhiệm
Anh Song Khê tự tử rồi!
Anh Phó Đức Chính bị bắt rồi!
Đối phương hả lòng bắt bớ, giết chóc, tàn phá rồi! Nhưng một ngày mà Anh Nguyễn Thái Học còn được tự do, thì một ngày họ còn bận lòng rộn trí!
Ngoài những hạng thám tử gà mồi tung ra tứ phía, họ in hơn bốn nghìn bức ảnh cho dán đi khắp ngã, treo cái giải thưởng năm nghìn đồng cho kẻ nào bắt hay giết được Anh Học, và phái hai trăm lính Khố Xanh, lập thành một đạo quân lưu động, để ngày đêm truy nã tìm tòi!
Một mặt thì các đồng chí có trực tiếp dự vào các cuộc đánh phá, không mấy ai còn thoát thân!
Số bị bắt, ở Yên Báy, 21 người binh sĩ, 62 người thuộc đội tiện y; ở Phú Thọ, hai trăm; ở Hà Nội, anh Nho, anh Tôn cùng 5 anh ném bom, tất cả đều thuộc về Đoàn Ám Sát; ở Bắc Ninh, Hải Dương, 56 người trong đạo quân Phụ Dực, Vĩnh Bảo; ở Hải Phòng, Kiến An, cơ mưu bại lộ, cũng góp vào sổ danh dự ngót hai chục anh.
Mà còn nữa, còn nữa! Vì tổng cộng lại, vừa bị đày, vừa bị giết, vừa đảng viên, vừa đoàn viên, tính đến cuối năm có ngót đến ba nghìn!
Vì các lẽ khó khăn ấy, Anh không dám ở đâu một chỗ đến luôn ba hôm. Tung tích Anh cần phải giữ sao cho thật nhiêu khê. Lúc thì trên một con thuyền lơ lửng mặt sông! Lúc thì trong một phòng tăng trên sườn non Yên Tử! Lúc thì sang Đông, lai vãng trong hai hạt Chí Linh, Nam Sách. Lúc thì về Bắc, lẩn quất trong hai huyện Lương Tài, Tiên Du…
Các anh em không biểu đồng tình với Anh về việc khởi nghĩa, vì họ cho là thời cơ chưa đến. Các anh em về phái trung lập đó, hồi trước biệt lập, khi ấy lại hòa hảo với Anh. Cái cớ làm cho ý kiến xung đột đã mất rồi, còn cái gì có thể chia rẽ nhau được nữa? Cho nên đối với Anh, chẳng những các đồng chí hết lòng hộ vệ, mà khắp cả mọi nơi, còn đua nhau gửi tiền cho Anh nữa. Trong số đó thì có ông Quách Vỵ, gửi đến năm trăm đồng.
Nói cho thực, thì trong Đảng hồi ấy, phái chủ chiến đã tan nát cả rồi, còn phái trung lập thì cho rằng Anh nên ra ngoại quốc, để tạm lánh sự rình mò của nhà đương cuộc. Cái tên Anh đã vang khắp trong ngoài nước, Anh ra ngoài có lợi cho việc ngoại giao nhiều lắm. Một mặt thì Quốc Dân coi Anh như linh hồn của Đảng. Anh ở ngoài, có thể làm cái trụ cột chắc chắn, để anh em nương tựa mà theo đuổi công việc cải tổ ở bên trong.
Cái ý ấy, anh Lê Hữu Cảnh, trưởng Ban Ám Sát sau khi anh Doãn bị bắt, thay mặt anh em mà nói với Anh, một hôm Anh ở Tiên Du. Nhưng Anh cười: “Không thể được! Không thể được!”
Rồi anh Đoàn Kiểm Điểm, thay mặt các nhà cách mệnh ta ở Tàu, khi ấy cũng thành lập một đảng ở hải ngoại, mà cũng lấy tên là Việt Nam Quốc Dân Đảng, từ Quảng Châu về, ngỏ ý
các cụ cho về mời Anh sang, nhưng anh cũng từ chối. Anh Điểm về mời Anh đến lượt ấy là hai lượt. Lượt thứ ba thì bị bắt ở Lạng Sơn, và bị đày ra Côn Lôn.
Sao anh Học lại không chịu ra ngoài? Anh cho rằng việc thất bại vừa rồi là trách nhiệm tự Anh. Tự Anh mà bao nhiêu đồng chí bị giết, bị tù; bao nhiêu gia đình tan nát; bao nhiêu làng bị đốt phá, bị triệt hạ… Anh cần phải ở lại trong nước, để cùng với các anh em cải tổ lại Đảng giữa một cơn khủng hoảng, giữa một hồi khủng bố. Anh cần phải chịu hết mọi sự nguy hiểm, khó khăn, không thể từ chối được.
Nói tóm lại, một là Anh có thể phụng sự Đảng cho đến lúc thành công, để đền nợ nước, để báo thù cho các đồng chí. Hai là Anh phải phấn đấu đến chết để tạ lại lòng tín nhiệm, trong của các anh em, ngoài của cả Quốc Dân. Chứ bỏ mọi người ở trong vòng gian nan, khốn khổ, rồi nhảy tót ra mà sống cái đời yên hàn chắc chắn ở nước ngoài, dù sao nữa “Học cũng không thể vâng lời được!” Thực ra thì chỉ một tay lãnh tụ mới có thể bắt buộc mọi người hy sinh cho mình nhiều quá như thế! Nhưng Anh, Anh không bao giờ dám coi mình là một tay lãnh tụ cả. Anh không có óc lãnh tụ, Anh chỉ có tấm lòng trách nhiệm mà thôi.
Thế rồi, Anh lại theo đuổi các công việc thường ngày, tổ chức lại, tuyên truyền thêm, để có một ngày Đảng lại đủ thế lực mà mưu đồ việc lớn.