Nhìn Lại 27 năm, CSVN đánh phá tiêu diệt GHPGVNTN
Cộng Sản Việt Nam tiêu diệt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất như thế nào? Bài tường trình đầy đủ với những bằng chứng rõ ràng của Hoà Thượng Thích Đồng Thanh. GHPGVNTN hiện nay do Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo kiêm Xử Lý Tăng Thống GHPGVNTN lãnh đạo.
Nhìn lại 27 năm Cộng sản Việt Nam và bọn tay chân
đánh phá nhằm tiêu diệt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Thích Đồng Thanh
Bản chất của Phật giáo
Phật giáo là một tôn giáo lấy giải thoát làm cứu cánh. Trên tiến trình giải thoát, lấy việc độ sanh (cứu độ quần sanh) làm sự nghiệp. Cứu độ chúng sanh là cúng dường chư Phật.
Muốn độ sanh, phải có 3 đức tính : Bi, Trí, Dũng. Muốn có Bi Trí Dũng phải tu 3 giải thoát môn (ba phương pháp giải thoát) : Giới, Định, Huệ. Nhờ giới mà phát sanh định, nhờ định mới phát sanh huệ.
Giới bao hàm từ bi, bố thí, không những không sát sanh mà còn phải cứu giúp chúng sanh bị khổ nạn, không nói dối, lừa gạt, đe dọa, khủng bố,… mà còn phải nói lên sự thật, vỗ về, an ủy chúng sanh…;
Định là hùng lực; và Huệ là sáng suốt.
Ngoài giới luật nói trên, người tu hành còn có oai nghi, tế hạnh phải tuân thủ.
Dựa trên tư tưởng tự do, giải thoát mà hình thành, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) không có giáo quyền vì chỉ căn cứ vào đức hạnh, nên không có những luật lệ ràng buộc, nghiêm ngặt. Vì vậy, đòi hỏi sự tu chứng tâm linh, tự giác, hơn là kỷ luật thép hay biện pháp trừng trị. Do đó, tổ chức Giáo hội là một tập thể phẩm hạnh dễ bị phân hóa, tan rã khi các thành viên biến chất, dùng Giáo hội như phương tiện lợi danh, quyền thế.
Tình trạng GHPGVNTN năm 1981
Năm 1981, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã khủng bố, dụ dỗ, áp đặt làm một cuộc thống nhất Phật giáo với mục đích tiêu diệt GHPGVNTN. Theo tập tài liệu “Thống nhất Phật Giáo” của Đổ Trung Hiếu, một cán bộ cao cấp, kiến trúc sư trong công cuộc thống nhất này, ông đã viết về quá trình và mục tiêu “thống nhất” Phật giáo năm 1981 là:
“Thực sự đại biểu là giữa Phật giáo của ta và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN). Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam đều là đại biểu dự Ðại hội, trong đó đại biểu của ta đa số (tức Ðảng Cộng sản).. Chín tổ chức và hệ phái Phật giáo, GHPGVNTN là một, còn lại tám với những danh nghĩa khác nhau, nhưng tất cả đều hoặc là ta hoặc là chịu sự lãnh đạo của Ðảng (…) Cuộc thống nhất Phật giáo lần này, bên ngoài do các Hòa thượng gánh vác, nhưng bên trong bàn tay Ðảng Cộng sản Việt Nam xuyên suốt quá trình thống nhất để nắm và biến tướng Phật giáo Việt Nam trở thành một tổ chức bù nhìn của Ðảng” .
Ông Hiếu cho biết Ban Dân vận Trung ương chỉ thị khống chế Phật giáo như sau:
“Nội dung đề án (thống nhất) là biến hoàn toàn Phật giáo Việt Nam thành một hội đoàn quần chúng. Còn thấp hơn hội đoàn, vì chỉ có Tăng, Ni, không có Phật tử ; chỉ có tổ chức bên trên không có tổ chức bên dưới, tên gọi là Hội Phật giáo Việt Nam (…) Nội dung hoạt động là lo việc cúng bái chùa chiền, không có hoạt động gì liên quan tới quần chúng và xã hội (…) Lấy chùa làm cơ sở chứ không phải lấy quần chúng Phật tử làm đơn vị của tổ chức Giáo hội” .
Điều đau đớn nhất cho GHPGVNTN là Hòa thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, đã bị cộng sản đe dọa, thuyết phục, nhận lãnh chức vụ Trưởng Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo do nhà cầm quyền tổ chức. Không được sự đồng ý của Giáo Hội, nên Ngài nói rằng, chỉ làm với tư cách cá nhân. Cùng cúi đầu theo cộng sản có thêm các vị HT Thích Minh Châu, Thích Thiện Siêu, Thích Trí Tịnh… HT Minh Châu viết bản tố cáo, kết án HT Quảng Độ : “ngang nhiên thách thức với chính quyền, Mặt Trân Tổ Quốc, là những cơ quan đã giúp đỡ cho việc thống nhất Phật giáo”, HT Thiện Siêu, không giữ chức vụ gì trong GHPGVNTN, nhưng lại giả mạo, làm Trưởng phái đoàn GHPGVNTN, tham dự đại hội tại chùa Quán sứ Hà nội, và HT Trí Tịnh, sai HT Từ Nhơn, đốt hết tài liệu lưu trữ tại văn phòng GHPGVNTN, toàn bộ tài liệu GH cháy đến mấy ngày đêm mới hết.
Tuy tổ chức rất kỹ lưỡng, nhưng nhà cầm quyền cộng sản sơ xuất một điều khi họ nói trong các giáo phái, GHPGVNTN là chính, nhưng phái đoàn gọi là đại diện cho GHPGVNTN lại bất hợp pháp, vì GHPGVNTN không cử một phái đoàn nào tham dự vào đại hội thống nhất này cả. Nhóm người thuộc GHPGVNTN chỉ tham dự với tư cách cá nhân. Từ thành phần phái đoàn đến Văn thư giới thiệu và con dấu đều là giả mạo. Vì vậy, trên pháp lý, GHPGVNTN vẫn đứng ngoài, vẫn tồn tại. Cộng sản nghĩ rằng làm như thế là đã qua mặt được chư Tăng trong GHPGVNTN, qua mặt được công luận và nhất là thấy một số các vị lãnh đạo cũng như chư tăng trong GHPGVNTN đã gia nhập vào GH Nhà nước rồi. Riêng hai vị, là Hòa thượng Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ, lại bị lưu đày, nên Cộng sản nghĩ rằng, như thế là GHPGVNTN đã bị tiêu diệt rồi, không còn lo gì nữa. (xin xem thêm sách “ Nhận Định về những sai lầm tai hại của Đảng Cộng sản Việt nam đối với Phật giáo và dân tộc” của Hòa thượng Thích Quảng Độ)
Tình trạng GHPGVNTN từ năm 2004 đến nay.
Để khắc phục sai lầm năm 1981, Cộng sản sắp xếp một cuộc đánh phá GHPGVNTN lần hai. Lần này, không tìm cách áp đặt, sáp nhập vào Gíao hội “quốc doanh” nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc như trước, mà vẫn giữ nguyên hình thức, vị thế, danh xưng như cũ, chỉ thay đổi lập trường, đường hướng của Giáo hội bằng 5 cách:
– GHPGVNTN không có hai hòa thượng Huyền Quang, Quảng Độ lãnh đạo,
– Đăng ký Gíao hội với Nhà cầm quyền cộng sản,
– Bỏ Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế tại Paris,
– Ủng hộ Sư Ông Nhất Hạnh trong việc hợp tác với nhà cầm quyền.
– Vận động các thành viên trong GHPGVNTN từ chức để áp lực nhị vị Hòa thượng theo đường hướng khác.
Việc đánh phá GHPGVNTN bắt đầu được thực hiện cả trong và ngoài nước. Cộng sản dùng Nghị Quyết 36 đánh phá các tổ chức, đảng phái, cộng đồng, tôn giáo của người Việt hải ngoại. Riêng GHPGVNTN bị đánh phá bằng nhiều cách theo các tư liệu sau đây:
1. Theo Bản Phúc trình Phật sự của HT Thích Thiện Hạnh, Chánh thư ký Viện Tăng Thống:
“Một số Phật tử ở Úc và Hoa kỳ, có gọi điện về thăm và nhân tiện, bày tỏ sự bất bằng về một số Thượng tọa, Đại đức và Cư sĩ tu xuất, đang là Thành viên Hội đồng Điều hành GHPGVNTN/HN tại Úc và Hoa kỳ, lại đi vận động tách khỏi GHPGVNTN là vì sao ?
(…)
“Điều mà Phật tử thắc mắc, chúng tôi thấy, đã được cụ thể qua quan điểm của anh Trần Quang Thuận và Bùi Ngọc Đường. Hai anh hồi cuối tháng 6 và đầu tháng 7 năm 2007 ; anh Trần Quang Thuận chê trách Hòa Thượng Quảng Độ. Bùi Ngọc Đường ngoài những lời lẽ như anh Thuận ; Bùi Ngọc Đường còn thêm chê bai Giáo hội. Sau hết Bùi Ngọc Đường khuyên chúng tôi từ chức Chánh thư ký VTT để nghỉ ngơi, giống hệt như lời Thượng tướng Công an Nguyễn Văn Hưởng đã khuyên Đức Tăng Thống thôi việc, nghỉ ngơi. Giọng điệu hai anh có vẻ như muốn thỏa hiệp, để được sinh hoạt, ý tưởng nầy còn được thấy rõ qua nhóm Thân Hữu Già Lam”.
“Chúng tôi được biết, ở Tu Viện Quảng Hương Già Lam ; cách đây một năm, đã hình thành một nhóm, có tên gọi “Thân Hữu Già Lam”. Thành viên khoảng trên dưới 40 vị gồm các thành phần Tu sĩ, Cư sĩ, Cư sĩ tu xuất. Các vị có mặt trong nước, ngoài nước khắp các châu lục. Các vị sinh hoạt dưới dạng Tăng già, chưa dám đứng hẳn vào Gíao hội Phật giáo Việt Nam (quốc doanh) năm 1981. Các vị quyên góp tiền gây quĩ xây dựng Đại Học, Thư Viện, Hội Trường, làm Văn Hóa Giáo Dục Phật Giáo. Đứng đầu nhóm có GS TS Lê Mạnh Thát, và học giả Thượng Tọa Thích Tuệ Sĩ…”
2. HT Thích Không Tánh, Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Từ Thiện Xã Hội, trả lời người Việt ở hải ngoại, cũng chú ý đến việc này:
“… Chúng tôi xin xác nhận mấy việc:
“1. Vào khoảng năm 2004-2005, khi Ðại Hội của GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ được thành công (nhờ Giáo Chỉ, Ðạo Từ của Ðệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và Huấn Từ của Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ, Viện trưởng VHĐ lưu nhiệm tất cả). Trong một cuộc họp tôi có trình lên Ban Chỉ Ðạo Viện Hóa Đạo ai cũng vui mừng, lúc đó TT Tuệ Sỹ có nói: Thành công gì mà thành công! Mọi việc người ta sắp xếp (nhân sự) đâu đó rồi tự nhiên Huấn Từ, Ðạo Từ ở đâu rớt xuống làm hỏng việc của người ta hết! Ðây rồi họ (ý nói quý Thầy và các Phật tử: Tâm Huy, Vĩnh Hảo, Bùi ngọc Ðường….ở Hoa Kỳ) sẽ từ chức hết chứ thành công gì mà thành công !
Thấy tình hình “căng” quá tôi và TT Thích Viên Ðịnh (Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo) cũng đứng dậy ra về. Khi xuống tới cầu thang, TT Viên Ðịnh có nói với tôi: Tôi không ngờ Thầy Tuệ Sỹ lại thất kính với Ðức Tăng Thống và HT Viện Trưởng như vậy!
2. Tôi không nhớ là năm nào, TT Tuệ Sỹ và TT Ðức Thắng (lúc bấy giờ là Tổng thơ ký Viện Hóa Đạo) có nói vơí tôi: Chờ Thủ Tướng Phan Văn Khải về nước (lúc bấy giờ ông Phan Văn Khải công du Mỹ quốc) mình đem danh sách Hội đồng Viện Hóa Ðạo lên “Ðăng Ký” để Giáo Hội được sinh hoạt dễ dàng, tôi nghe thế có hỏi: Vậy quý Thầy có trình việc nầy lên Cụ Viện Trưởng và Cụ Viện Trưởng có đồng ý không ? Thì quý Thầy trả lời “Ðồng ý chứ sao không đồng ý” (trong thời gian đó, Công an canh gát Hòa Thượng rất kỹ, và 2 Thượng tọa Tuệ Sỹ, Đức Thắng cũng không có ai lên thăm HT Viện Trưởng cả).
3. Do quý Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử (GĐPT) nào đó ở Hải ngoại đề nghị mà TT Tuệ Sỹ cùng với Thầy Thanh Huyền (lúc bấy giờ là Tổng vụ trưởng Tổng Vụ Thanh Niên) đã tấn phong một số Huynh Trưởng lên Cấp Dũng (trong đó có anh La Thanh Ty, một Huynh trưởng GÐPT ở Ðà Nẵng rất chống GHPGVNTN mà không trình và thông qua Hòa Thượng Viện Trưỏng được biết.
4. Sau khi Huynh trưởng Hạnh Minh – Hồ Tấn Anh tự thiêu để bảo vệ Giáo Hội và lên án CS đàn áp Nhân Quyền và Tự Do Dân Chủ, tôn Giáo….. một số Huynh trưởng Miền Trung có vào gặp TT Tuệ Sỹ xin ra Thông Bạch Truy Niệm, Cầu Siêu….thì TT nói: Tự thiêu sao không báo cho Thượng tọa biết! Tự thiêu như vậy là vi phạm Nhân Quyền !
5. Nhiều Thầy và Phật tử ở hải ngoại qúy tài làm thơ và dịch Kinh của TT Tuệ Sỹ, cũng như ủng hộ đường lối, lập trường của Tuệ Sỹ trước kia, nên khi thấy TT Tuệ Sỹ không có tên trong Hội đồng Viện Hóa Ðạo vào năm 2005 nữa, thì cho rằng HT Viện Trưởng độc tài, loại bỏ Thầy Tuệ Sỹ. Sự thật, HT Viện Trưởng có Chỉ Ðạo TT Viên Ðịnh mời TT Tuệ Sỹ về Chùa Giác Hoa họp, nhưng TT Tuệ Sỹ đã lấy cớ “Nhập Thất” không đến, nhưng sau đó lại đi Nha Trang dự đám tang Ni sư Tâm Ðăng viên tịch, nên HT Viện Trưởng đã chỉ đạo cho tôi ra Nha Trang để thỉnh TT Tuệ Sỹ giữ chức Chủ Tịch Hội Ðồng Phiên Dịch Viện Tăng Thống và tấn phong TT lên Hòa Thượng, nhưng TT Tuệ Sĩ đã từ chối và nói: “Tôi đã có hứa làm việc với Thầy Lê Mạnh Thát, hơn nữa tôi đã có đơn từ chức rồi, xin Thầy thưa với HT Viện Trưởng đừng có tấn phong, bổ nhiệm gì cả, tôi sẽ có thư từ chối, thì kỳ lắm….”. Việc TT Tuệ Sỹ từ chức, kéo theo các TT Phước Viên, Ðức Thắng, Phước An…. đồng loạt xin từ chức ! Vì thế nhiệm kỳ 2005 không có tên của quý TT trên trong Hội Ðồng Lưỡng Viện của GHPGVNTN nữa !
6. Khi vừa được Ðại Lão HT thích Huyền Quang và HT Viện Trưởng mời TT Tuệ Sỹ làm Phó Viện trưởng kiêm Tổng thư Ký VHÐ (cuối năm 1999) thì Thầy đã nhiều lần yêu cầu tôi không nên liên lạc, tiếp xúc với GS Võ văn Ái đang đảm đương nhiệm vụ Giám Ðốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế và Phát ngôn nhân của Viện Hóa Đạo trong nước !
Có rất nhiều việc, tôi không nhớ hết! Xin tóm tắt lại mấy việc để anh và quý Phật tử nào, một lòng trung kiên với lý tưởng và lập trường của GHPGVNTN được biết về hướng đi của TT Tuệ Sỹ. Theo tôi, có nhiều việc TT Tuệ Sỹ khó lòng chủ động được….”.
3. Tường trình từ Huế về “Mưu đồ của Thượng tọa Tuệ sỹ với GHPGVNTN” của Phật Tử Lê Nguyễn Minh Đức:
“… Sau khi không tham gia GHPGVNTN, Thầy Tuệ Sỹ đã nhiều lần vận động tôi ( HT Thích Thiện Hạnh) nghỉ việc. Năm 2007 khi đưa Đức Tăng Thống vào điều trị tại bệnh viện Pháp Việt, tôi về nghỉ tại Già Lam, Thầy Tuệ Sỹ nói với tôi rằng : “ Ôn nên nghỉ việc đi, theo Di chúc của Hoà Thượng Huyền Quang mà Bùi Ngọc Đường đọc được thì Ôn không có chức vụ chi mô. Ôn nghỉ đi và cầu nguyện cho con và Lê Mạnh Thát. Sau nầy chúng con sẽ cung thỉnh Ôn trở lại”. Tôi đã nói cho Thầy Tuệ Sỹ biết rằng tôi làm việc vì Gíao hội, vì tấm lòng của tôi đối với Nhị Vị Lãnh Đạo, xin Thầy hãy bỏ luận điệu ấy đi và xin Thầy suy nghĩ cho kỹ về hành động của mình .
“Thế nhưng khi tôi về Huế, Thầy Tuệ Sỹ lại gọi điện ra nhắc lại một lần nữa, sau đó có Bùi Ngọc Đường, Trần Quang Thuận về vận động tôi nghỉ theo ý đồ của Thầy Tuệ Sỹ như tôi đã nói trong bản Phúc Trình Phật Sự của Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống đã phổ biến.”
4. Cao điểm là cuộc vận động đông đảo chư Tăng và Phật tử hải ngoại về Việt nam tham dự Đại lễ Phật Đản VESAK 2008. Lễ này, thực chất là việc “làm công tác đối ngoại của nhà cầm quyền cộng sản, hoàn toàn không phải của Phật giáo”, theo lời Giáo sư Lê Mạnh Thát, Trưởng ban tổ chức, trả lời với phóng viên đài truyền hình SBTN ở Hoa kỳ.
5. Cuối cùng là chuẩn bị vận động số đông, có tư tưởng hòa hợp hòa giải với cộng sản, để bỏ phiếu chiếm văn phòng II Viện Hóa Đạo nhân Đại hội Hoa kỳ vào tháng 10 năm 2008, điều mà năm 2004, nhóm này đã âm mưu nhưng bất thành, nhờ Đạo Từ và Huấn Từ của nhị vị Hòa thượng lãnh đạo Gíao hội từ trong nước gửi ra kịp thời.
Tổng hợp các tin tức trên cho thấy cuộc đánh phá GHPGVNTN lần này nhắm vào 3 mục đích:
1- Thay đổi lãnh đạo Giáo hội, loại bỏ nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ để thủ tiêu lập trường vận động Tự do, Dân chủ, Nhân quyền cho VN và sự phục hoạt của GHPGVNTN.
2- Triệt tiêu Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế tại Paris. Kể từ năm 1992, thấy rõ âm vọng quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh của GHPGVNTN trên trường quốc tế nên Nhà cầm quyền Cộng sản chỉa mũi dùi đánh phá Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế mong dập tắt cơ quan ngôn luận hữu hiệu quốc tế này. Một mặt viết hàng loạt bài bôi nhọ, vu khống trên báo chí nhà nước. Mặt khác sử dụng bọn đặc tình mang danh “Phật giáo” qua nhóm Giao Điểm rồi Thân hữu Già Lam viết bài đánh phá Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để gây ác cảm và hoang mang dư luận.
3- Gây chia rẽ, ly gián, phân tán lực tượng GHPGVNTN tại hải ngoại, làm cho bộ phận vận động quốc tế của Giáo hội yếu đi, đồng thời bành trướng khuynh hướng thỏa hiệp với nhà nước trong giới Tăng Ni, Phật tử để thủ tiêu cuộc tranh đấu.
Việc này đã được kiểm chứng qua văn kiện của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trong bản công bố Phúc trình về tự do tôn giáo trên thế giới ngày 20.9.2008:
“… Đối với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, chính quyền CSVN vẫn cấm hoạt động cho đến khi các vị lãnh đạo hiện tại của giáo hội này hết còn nắm quyền” (ý nói loại trừ HT Quảng Độ).
Giống như biến động năm 1981, lần này, Cộng sản cũng dùng cách khai thác các nhược điểm riêng tư, những dây mơ, rễ má, kinh tế cá nhân, hủ hóa cá nhân về mặt phụ nữ, để đe dọa, dụ dỗ, mua chuộc một số thành viên lãnh đạo giáo hội bị biến thái, chia rẽ, đi theo lập trường, đường hướng khác, làm cho nhiều chi nhánh GHPGVNTN ở hải ngoại bị phân tán, tách khỏi GHPGVNTN truyền thống do Đức Đệ Tứ Tăng Thống, Đại Lão HT Thích Huyền Quang và Đại Lão HT Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo lãnh đạo.
Cộng sản nắm kỹ “hồ sơ phụ nữ” của một số Tăng sĩ trong cũng như ngoài nước, dùng hồ sơ này áp lực, hù dọa, săn ta các sư đi theo con đường chỉ đạo cộng sản.
Đánh trúng tâm lý ước mơ “xây chùa lớn”, thông qua tín đồ thuần thành, cộng sản đầu tư tài chánh cho việc xây cất. Chùa xây xong tín đồ hữu công “cố vấn” gì, đố các Thầy dám làm trái ý.
Hội Đồng Lưỡng Viện, theo phúc trình của các thành viên, nhất là của Ban Đại Diện Thừa Thiên Huế, do Hòa thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh Đại Diện tỉnh, kiêm Chánh thư ký Viện Tăng Thống, trình bày, đã đi đến quyết định ban hành Giáo chỉ số 09, để đối phó với tình hình, nhằm bảo toàn Giáo hội trong nước qua việc kiện toàn Văn Phòng II Viện Hóa Đạo và củng cố lại các Gíao hội, và phân nhiệm cho một số chư Tăng Đặc trách Liên Lạc các nước và châu lục hải ngoại.
Hiến chương GHPGVNTN, chương thứ IX, điều 36, thành lập các chi bộ Gíao hội tại Hải ngoại trực thuộc Viện Hóa Đạo, để hướng dẫn tăng tín đồ thuộc GHPGVNTN tu học, phát huy nền Phật học cũng như văn hóa đạo đức Việt nam trên thế giới theo mục đích, tiêu chí mà Hiến chương đã nêu rõ. Tùy hoàn cảnh, địa phương nào nhân sự ít thì chỉ cần có một vài vị Đặc Trách Liên Lạc đại diện, địa phương nào nhân sự đông, thì thành lập GHPHVNTN Hải ngoại tại địa phương đó. Những thành viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương thuộc Viện Tăng Thống, do Đức Tăng Thống ký Giáo chỉ tấn phong; những tổ chức Gíao hội, Ban, ngành trực thuộc Viện Hóa Đạo, do Viện Hóa Đạo phê chuẩn, công nhận. Những tổ chức, Giáo hội mang tên GHPGVNTN nhưng không được Viện Hóa Đạo phê chuẩn là Gíao hội tiếm danh, giả mạo.
Như trên đã nói, cơ cấu tổ chức GHPGVNTN không có giáo quyền, không có gì ràng buộc, cái chính dựa trên sự tự nguyện và uy đức. Nên các thành viên thiếu am hiểu, tu chứng hay đạo tâm không vững thường vi phạm các nguyên tắc tổ nhức, gây ra đổ vỡ.
Lấy trường hợp điển hình là Hòa thượng Thích Trí Thủ, cựu Viện trưởng Viện Hóa Đạo, khi bị thế quyền khuất phục, mất chí hướng vun bồi, bảo vệ Gíao hội, ngài đã vi phạm ngay những nguyên tắc do chính ngài ban hành:
Xin đọc đoạn trích sau đây trong “Thông Tư số 150” của Viện Hóa Đạo do Hòa thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng, ký ngày 25 .1. 1975:
“…Để tránh mọi ngộ nhận có thể có đối với lập trường và đường hướng cố hữu của Giáo Hội, Viện Hóa Đạo kính yêu cầu quí vị hãy thận trọng, không nên tham gia bất cứ tổ chức nào ngoài tổ chức của Giáo Hội…”
hay “Thông Tư số 002” của Viện Hóa Đạo do HT Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, ký ngày 16. 3. 1976:
“ … Những thành viên nào trong các Ban Đại Diện hiện hữu, từ Chánh Đại diện trở xuống, nếu đã chính thức gia nhập và hoạt động cho các Giáo phái hay đoàn thể ngoài Giáo Hội, dù đã có đơn từ chức hay không, thì được coi như đã tự ý ra khỏi Giáo Hội. Trong trường hợp ấy, Ban Đại Diện có toàn quyền bầu lại hoặc bổ sung nhân sự mới…”
Người đứng đầu Gíao hội, Hòa thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, mà còn hành xử trái nguyên tắc tổ chức, chưa được sự đồng ý của Gíao hội, đã tự ý tham gia vào Ban Vận Động thống nhất Phật Giáo do Nhà cầm quyền Cộng sản tổ chức với chức danh Trưởng Ban. Ngày nay, những cán bộ cấp dưới, những thành viên mới tham gia Gíao hội, không tuân hành các nguyên tắc tổ chức của Gíao hội cũng không phải là chuyện lạ. Cộng sản đã khai thác triệt để sự vi phạm nguyên tắc cố hữu này để xé nát Gíao hội.
Và, việc hòa hợp, hòa giải với nhà cầm quyền cộng sản, ly khai, chia rẽ Gíao hội hiện nay cũng được biện minh bằng nhiều lý do:
Năm 1981, các lý do đưa ra biện chính gồm có:
– Tùy thuận, uyển chuyển để sống,
– Dùng nhu thắng cương,
– Đất nước đã thống nhất, Phật giáo cũng thống nhất,
– Hy sinh danh dự cá nhân để giữ chùa….
Năm 2008, lại nêu các lý do khác như:
– Gíao chỉ số 09, Thông Bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 không phải của Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang và HT Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Quảng Độ;
– Gíao hội các châu chỉ liên hệ tinh thần, không liên hệ hành chính với Gíao hội trong nước
– Mỗi người có quyền tham gia nhiều Gíao hội
– Hợp tác với Cộng sản để làm giáo dục, văn hóa, từ thiện
– Hóa thân để độ người Cộng sản…
Hiện nay, tuy một số chư tăng bị biến chất, mất lập trường, đã ly khai khỏi GHPGVNTN, hợp cùng một số chư tăng ngoài Giáo Hội, kết thành những tổ chức khác, bước đầu là tiếm danh GHPGVNTN, gây ra cảnh nhập nhằng, lộn xộn, hắc bạch khó phân, hòng làm giảm uy tín của GHPGVNTN chính thống. Bước tiếp theo, không biết các tổ chức Gíao hội tiếm danh này sẽ làm gì nữa để đánh phá GHPGVNTN truyền thống do Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và Đại Lão Hòa thượng Thích Quảng Độ Viện trưởng Viện Hóa Đạo lãnh đạo, làm cho công cuộc vận động phục hoạt GHPGVNTN trong nước và nhất là việc vận động Dân chủ, Nhân quyền cho Việt Nam càng khó khăn thêm.
Năm 1981, ngoài một số vị lãnh đạo cao cấp như HT Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, là đầu tàu, cũng bị cộng sản bắt ép, mua chuộc, thuyền chưa lật, đã vội nhảy sang thuyền khác, chỉ còn hai HT, Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ vẫn trung kiên với Gíao hội, nhưng lại bị tù đày. Không có người lèo lái, nên GHPGVNT, lúc bấy giờ, hầu như bị tan rã, không còn gì.
Nhưng lần này, 2008, GHPGVNTN do nhị vị Đại Lão Hòa thượng là Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang và Hòa thượng Viện trưởng, Thích Quảng Độ lãnh đạo, đã sáng suốt, ứng biến kịp thời, ban hành Gíao chỉ số 09 cùng với sự dày dạn, kiên cường, nắm vững tay chèo của Đức Phó Tăng Thống, Đại Lão Hòa thượng Thích Hộ Giác, Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hóa Đạo ở hải ngoại, tuy khó tránh khỏi vài thương tổn nhỏ, nhưng trong nước vẫn còn 20 Ban Đại Diện các tỉnh thành, tổ chức Gia Đình Phật Tử, ở hải ngoại, vẫn giữ vững được Văn Phòng II Viện Hóa Đạo, Gíao hội Hoa Kỳ và các vị Đại Diện Liên lạc các quốc gia, Châu lục ở hải ngoại.
Qua các biến động gần đây, tuy có một số chư tăng bị dụ dỗ, mua chuộc, xa rời Gíao hội, nhưng ngược lại nhờ đó, lập trường, đường hướng chân chính của Gíao hội càng được sáng tỏ nên đồng bào các giới trong và ngoài nước tham gia, ủng hộ GHPGVNTN càng thêm đông đảo. Hai cuộc Họp báo của Văn phòng II Viện Hóa Đạo tổ chức tại thành phố San Jose, miền Bắc California ngày 12.10 và tại chùa Điều Ngự ngày 19.10 tại thành phố Westminster, miền Nam California, đều được đồng bào Phật tử hưởng ứng trước một cử tọa hai, ba nghìn người là một bằng chứng của con đường chính nghĩa Phật giáo. Công cuộc vận động để phục hoạt GHPGVNTN và nhất là Tự do, Dân chủ, Nhân quyền và vẹn toàn lãnh thổ cho quê hương Việt Nam vẫn tiếp tục tiến bước cho đến ngày thành công.
Mong rằng, dù ai đã chọn con đường cầu an khác, thì cũng chớ quêń lời phát biểu của Hòa thượng Thích Quảng Độ, trong cuộc họp của Viện Hóa Đạo tháng 9 năm 1981:
“Kính thưa toàn thể quí vị, chắc quí vị cũng như tôi đều thấy rõ hiện nay con thuyền Giáo-hội Phật giáo Việt-nam Thống nhất đang lênh đênh giữa biển khơi và gặp sóng to gió lớn, chưa biết sẽ chìm lúc nào. Vậy, nếu những ai trong quí vị có mặt ở đây hôm nay cảm thấy nguy nan sợ hãi mà muốn bước sang thuyền khác để thoát thân, thì xin quí vị ấy cứ việc tự do, không ai ngăn cản cả. Nhưng tôi chỉ xin quí vị ấy một điều là : trước khi bước sang thuyền khác qúi vị cứ để mặc cho con thuyền Giáo hội lênh đênh trôi giạt trong sóng gió với những người còn ở lại trên đó, họ sẽ cố sức lèo lái, nếu may mắn vượt qua cơn nguy nan mà đến được bờ bình an thì họ sống, còn nếu chẳng may con thuyền chìm thì họ cũng sẽ sẵn sàng chết theo nó, chứ quí vị ấy đừng đang tâm nhận chìm con thuyền của mình mà có lần đã từng đưa quí vị đến bờ danh vọng, lợi lộc, trước khi bước sang thuyền khác. Tôi chỉ xin quí vị có thế thôi…”.
Saigon, Kỷ niệm Lễ Bách nhật Đức Đệ Tứ Tăng Thống
Đệ Tử Thích Đồng Thanh