Lật thuyền Ba Đình và lật giàn Hải Dương !!!
Giàn khoan HD 981 của Tàu cộng đã khiến cho đồng bào Việt Nam còn lòng ái quốc hết sức phẫn nộ đối với lũ xâm lược. Vì tất cả đều thấy đó là một nguy cơ. Thế nhưng nhiều người cũng nhận ra đó là một cơ hội tốt. Cơ hội để thức tỉnh các đảng viên CS còn mù quáng tin vào việc chung “lý tưởng xã hội chủ nghĩa”, vào “tình hữu nghị Việt-Trung” mà “ hai bác Mao Hồ đã cùng xây đắp”, vào mối liên hệ nồng thắm “4 tốt 16 chữ vàng”. Cơ hội để lay động những người dân còn thờ ơ với vận nước, chỉ biết miệt mài chuyện áo cơm hay chuyện tiền bạc. Cơ hội để thúc đẩy lịch sử VN sang trang và có một bước đột phá trong chiến lược toàn cầu của mình, tức là nhận diện kẻ thù đích thực và tìm kiếm đồng minh tin cậy để vững bước trên đường phát triển mới.
Sau hơn tuần lễ chờ đợi các lãnh đạo cao cấp trong đảng và nhà nước lên tiếng mà chỉ thấy sự im lặng đáng sợ hay những phát biểu rụt rè, cuối cùng người dân cũng phần nào đỡ ấm ức khi nghe thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cất lời tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN tổ chức ở Myanmar hôm 11-05-2014: “Từ ngày 01-5-2014 Trung Quốc (TQ) đã ngang nhiên đưa giàn khoan nước sâu cùng hơn 80 tàu vũ trang, tàu quân sự và máy bay hộ tống đi vào vùng biển VN và đã hạ đặt giàn khoan này tại vị trí nằm sâu trên 80 hải lý trong Thềm lục địa và vùng Đặc quyền Kinh tế của VN theo Công ước Liên Hợp Quốc (LHQ) về Luật Biển 1982…. Đây là lần đầu tiên TQ ngang nhiên đưa giàn khoan vào hạ đặt tại địa điểm nằm sâu trong Thềm lục địa và vùng Đặc quyền Kinh tế của một nước trong ASEAN, là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng Luật pháp Quốc tế, Công ước LHQ về Luật Biển 1982 và cũng là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng Tuyên bố về Ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) mà TQ là một bên tham gia ký kết. Hành động cực kỳ nguy hiểm này đã và đang đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông”. Thế là ngày 14-05, có hai nhân sĩ đã thảo một “Thư yêu cầu khởi kiện TQ ra tòa án quốc tế” gửi Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội và mời gọi nhân dân ký tên, trong đó đề nghị: “VN cần phải đưa việc TQ triển khai giàn khoan Hải Dương 981 ra cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước LHQ về Luật biển… Song song, VN nên yêu cầu chính thức TQ đưa tranh chấp Hoàng Sa ra giải quyết tại Toà án Công lý Quốc tế. Đây là một cách thức đấu tranh hoà bình được Điều 33.1, Hiến chương LHQ quy định”.
Như được đà, tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới tổ chức ở Manila Philippin ngày 21-5-2014, ông Dũng lại phát biểu tương tự ngày 11. Hôm sau, 22-05, ông còn tuyên bố với phóng viên của Reuters và AP: “VN luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và nhất định không đánh đổi điều thiêng liêng này để lấy một thứ hòa bình viễn vông, lệ thuộc nào”, rồi còn hứa hẹn: “Như các nước khác, VN đang cân nhắc nhiều phương án tự vệ, kể cả phương án đấu tranh pháp lý dựa theo luật pháp quốc tế”. Đến ngày 29-05, mở đầu phiên họp báo thường kỳ, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng CP Nguyễn Văn Nên xác định: “Về mặt pháp lý, hồ sơ đã được chuẩn bị từ lâu, [dư luận cho là đã 10 năm] nhưng thực hiện nó thế nào phải cân nhắc kỹ càng. Trong lúc này lãnh đạo đang cân nhắc lựa chọn, thời điểm hoặc giải pháp thật sự cần thiết”. Đáp ứng lại, ngày 30-05, 115 nhà trí thức đã viết một thư ngỏ (nay lên tới trên 1000 chữ ký) ghi nhận và ủng hộ ông Dũng có những “quan điểm và hành động tích cực”. Trong cùng ngày, trả lời hãng tin Bloomberg, ông lại cho biết : “Chúng tôi đã chuẩn bị và sẵn sàng cho hành động pháp lý. Chúng tôi đang cân nhắc thời điểm thích hợp nhất để tiến hành biện pháp này”. Xin nhắc lại là toàn dân đỡ ấm ức thôi, vì TT chẳng thèm tuyên bố với quốc dân mà chỉ với quốc tế!
Thế nhưng, người dân đợi mãi mà chẳng thấy động tĩnh gì về việc kiện cáo, thậm chí còn thêm tức trước tuyên bố chủ hòa, chủ bại của bộ trưởng Quốc phòng tại Đối thoại Shangri-La. Đùng một cái, trang mạng VN Dân Đen đưa tin (tương tự BBC): “Hôm qua, 9-6-2014, một phái đoàn của TQ đã gửi công thư đến Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon, trưng ra các tài liệu cho rằng VN đang khiêu khích TQ, đồng thời nêu rõ lập trường của TQ về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Trong công thư, Vương Mân (Wang Min), Phó Đại diện Thường trực của TQ tại LHQ, yêu cầu ông Ban Ki-moon phổ biến các tài liệu của TQ đến toàn thể các nước thành viên của LHQ, như là tài liệu chính thức của Đại Hội đồng. Trong số các tài liệu này, có một tuyên bố của Bộ Ngoại giao TQ ra ngày chủ nhật 8-6, với tựa đề “Hoạt động của giàn khoan dầu HYSY 981: Sự khiêu khích của VN và lập trường của TQ”. Kèm theo là phụ lục tài liệu chứng minh quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa của VN) là một phần của lãnh thổ TQ”.
Thật vậy, theo Dân Làm Báo, Tuyên bố viết: “Trước năm 1974, các khóa Chính phủ VN không hề đưa ra bất cứ nghị dị đối với chủ quyền quần đảo Tây Sa của TQ. Bất cứ trong tuyên bố, công hàm của Chính phủ VN hay là trên báo chí, tạp chí, bản đồ và sách giáo khoa của VN đều chính thức công nhận quần đảo Tây Sa từ xưa đến nay là lãnh thổ của TQ”. Sau đây là trích đoạn phần nói về 5 bằng chứng từ đảng VNCS:
Bằng chứng 1: “Ngày 16-5-1956, trong buổi tiếp Đại biện lâm thời Đại sứ quán TQ tại VN Lý Chí Dân, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nước VNDCCH Ung Văn Khiêm trịnh trọng bày tỏ: “Căn cứ vào những tư liệu của VN và xét về mặt lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa là thuộc về lãnh thổ TQ”. Vụ trưởng Vụ châu Á Bộ Ngoại giao VN Lê Lộc còn giới thiệu cụ thể hơn những tư liệu của phía VN và chỉ rõ: “Xét từ lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đã thuộc về TQ ngay từ đời Nhà Tống””.
Bằng chứng 2: “Ngày 4-9-1958, Chính phủ TQ ra tuyên bố chiều rộng của lãnh hải TQ là 12 hải lý, dứt khoát nêu rõ: “Quy định này áp dụng cho tất cả mọi lãnh thổ của nước CHND Trung Hoa, trong đó bao gồm quần đảo Tây Sa”. Ngày 6/9, trên trang nhất của báo Nhân Dân -cơ quan trung ương của Đảng Lao động VN đã đăng toàn văn bản tuyên bố lãnh hải của Chính phủ TQ. Ngày 14/9, Thủ tướng Chính phủ VN Phạm Văn Đồng đã gửi Công hàm cho Thủ tướng Quốc vụ viện TQ Chu Ân Lai, trịnh trọng bày tỏ: “Chính phủ Nước VNDCCH công nhận và tán thành tuyên bố về quyết định lãnh hải công bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước CHNDTH””.
Bằng chứng 3: “Ngày 9-5-1965, Chính phủ Nước VNDCCH đã ra tuyên bố về việc Chính phủ Mỹ lập “khu tác chiến” của quân Mỹ tại VN, chỉ rõ: “Việc Tổng thống Mỹ Giôn-xơn xác định toàn cõi VN và vùng ngoài bờ biển VN rộng khoảng 100 hải lý cùng một bộ phận lãnh hải thuộc quần đảo Tây Sa của nước CHNDTH là khu tác chiến của lực lượng vũ trang Mỹ”, đây là đe dọa trực tiếp đối với an ninh của Nước VNDCCH và nước láng giềng”.
Bằng chứng 4: Tập Bản đồ Thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ phủ Thủ tướng VN in ấn xuất bản tháng 5-1972 đã ghi chú quần đảo Tây Sa như tên gọi Trung Quốc”.
Bằng chứng 5: “Trong sách giáo khoa Địa lý lớp 9 do Nhà xuất bản Giáo dục VN xuất bản, có bài giới thiệu “Nước CHNDTH” viết: “Từ các đảo Nam Sa, Tây Sa đến đảo Hải Nam, đảo Đài Loan, các đảo Bành Hồ, quần đảo Châu Sơn…, các đảo này có hình vòng cung, tạo thành bức ‘Trường Thành’ bảo vệ TQ đại lục”. Cho đến thời điểm này, nhà cầm quyền CSVN chưa hề đưa ra bất cứ tuyên bố chính thức nào trước việc động trời ấy.
Thật ra, từ lâu người dân trong nước đã nghe nói đến 5 bằng chứng đó, đều hiểu rằng tất cả chỉ là chuẩn bị hay minh giải cho bằng chứng 2, quan trọng nhất, tức Công hàm PVĐ, và đều thấy rằng đó là những văn kiện bán nước không thể chối cãi của chế độ CSVN dưới quốc hiệu VNDCCH (mà CHXHCNVN nay kế tục sự nghiệp), khẳng định đảng CSVN chính là một tập đoàn phản quốc. Oái oăm thay, đây là lần đầu tiên TQ chính thức trưng ra chúng trước quốc tế, chính thức gởi chúng tới 193 quốc gia thành viên của Đại hội đồng LHQ, để Hà Nội phải thúc thủ, nghẹn họng. Mà Hà Nội đã nghẹn họng thúc thủ từ lâu rồi bởi cái công hàm bán nước khốn nạn. Vì nếu dễ phủ nhận nó, thì các lãnh đạo CS đã tranh nhau làm công việc này hòng lấy điểm với lịch sử, không lý gì lại nhường công cho một phó chủ nhiệm UB Biên giới quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao với những lập luận mà các chuyên gia luật quốc tế đều đã cười vào mặt. Giải thích lại công hàm Phạm Văn Ðồng chỉ đi vào ngõ bí, để lòe bịp dân Việt thì được nhưng không thể đưa ra cãi trước tòa án và dư luận thế giới. Tàu Cộng đã đưa ra quy tắc Estoppel trong luật pháp, không cho phép ai nói và làm ngược lại những điều mình đã nói hay làm trước đó, gây thiệt hại cho đối phương. Cũng không thể bảo rằng giáo khoa và bản đồ của VN đã in sai, nay xin cải chính lại, vì guồng máy kiểm soát và duyệt y các sách giáo khoa là chính Ban Tuyên giáo của đảng cầm quyền CS.
Chỉ có một cách để dân tộc và nhà nước VN bác bỏ được những bằng chứng của nhà cầm quyền Tàu Cộng, để thoát ra khỏi ngõ bí chết người, hại dân, mất nước là thẳng tay xóa bỏ chế độ cộng sản. Dân tộc VN cần lập ra một thể chế chính trị mới, chính quyền mới, quốc hội mới, đa đảng đa nguyên, tự do dân chủ, giống như các nước cộng sản Ðông Âu và các nước thuộc Liên Xô cũ đã làm vào cuối thế kỷ trước. Chính quyền mới, quốc hội mới (thực sự của dân, do dân, vì dân) lúc ấy sẽ đủ thẩm quyền và chính danh tuyên bố đoạn tuyệt với quá khứ nhục nhã, xóa bỏ tất cả các thỏa hiệp bất bình đẳng, công khai hoặc bí mật mà Cộng sản Việt đã ký kết với Cộng sản Tàu (từ công hàm Phạm Văn Đồng 1958, mật ước Thành Đô 1990, hiệp định biên giới 1999, hiệp định lãnh hải 2000, đến cam kết hợp tác toàn diện 2011…). Khi đó, nước VN mới có thể dõng dạc nói với cả thế giới rằng Hoàng Sa, Trường Sa vĩnh viễn thuộc chủ quyền dân tộc Việt, mới có thể ung dung mời gọi và chắc chắn có được những đồng minh hùng mạnh đáng tin cậy để đối phó với xâm lược Tàu.
Quả bóng cứu dân cứu nước đang trong chân nhà cầm quyền, dân rất mong mỏi các lãnh đạo chính trị biết giải quyết thông minh khôn ngoan, ích nước lợi nhà, coi quyền lợi của Tổ quốc là tối thượng. Nhưng xem ra tiền đạo họ Phùng và nay tiền đạo họ Nguyễn cứ sút mãi bóng vào lưới nhà qua việc tiếp tục cấm cản nhân dân biểu tình, bách hại các tôn giáo, tống ngục thêm các công dân yêu nước, hành hạ thêm các tù nhân lương tâm… thì tất nhiên dân phải đứng dậy giành quả bóng về chân mình mà hành xử theo đúng ý nguyện của dân là lật con thuyền Ba Đình khốn khiếp đồng thời lật luôn cả giàn khoan Hải Dương khốn nạn!
Ban Biên Tập TDNL (6-2014)