Kỷ niệm 94 năm cuộc khởi nghĩa Yên Báy, 10/2/1930 – 10/2/2024
Người trong nước viết về ngày tổng khởi nghĩa 10-02-1930 của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
“Sau này lớn lên tôi mới hiểu thứ bậc trong gia đình. Bà là vợ em trai ông nội tôi: Ông Dương Huy Lân. Theo tục lệ ở quê, không ai gọi tên riêng của bà, cả dòng họ đều gọi bằng tên chồng: Bà Lân”
Bà Tôi
Viết từ Hà Nội: Lúc còn nhỏ, nhiều lần được theo cha về quê nội, tôi rất ấn tượng với một người cha tôi gọi là thím, xưng con rất kính cẩn. Bà thường đon đả chạy ra ôm chầm lấy cha tôi và thốt lên: “Con đã về!”, rồi bà đột ngột đẩy bố tôi ra nhìn xem gầy mập ra sao. Tôi bẽn lẽn ôm chân bố lý nhí: “Cháu chào bà trẻ ạ!”. Bà bế tôi lên hôn vào má rồi tất bật tìm thứ gì cho tôi ăn, lúc thì quả cam, múi bưởi trong vườn nhà, khi thì khúc mía hay củ khoai luộc ngọt lịm… Ấn tượng của tôi về bà là một người phụ nữ nhỏ nhắn, nhanh nhẹn và rất giàu tình cảm. Gương mặt bà còn giữ lại được nhiều nét thanh tú của một thời xuân sắc, đôi mắt bồ câu đen láy, đôi môi ăn trầu cắn chỉ đỏ tươi… Bà nội tôi mất sớm nên mỗi khi về quê, tôi thường quấn quýt bên bà. Yêu quí bà nên khi xa tôi rất nhớ.
Thời gian thấm thoắt trôi, bà tôi trở thành mẹ của sáu người con, bốn trai, hai gái, các cô chú tôi đều được bà nuôi dạy học hành chu đáo và trở thành người hữu dụng trong xã hội. Cả dòng họ nhà chồng đều yêu quí, kính trọng bà. Ai cũng khen bà đảm đang tần tảo, rất mực yêu thương chồng con, sống nghĩa tình với họ hàng, làng xóm.
Ai dám bảo những người phụ nữ phương Đông cả đời không đi thoát ly công tác là không có sự nghiệp gì? Bà tôi có cả một sự nghiệp riêng của người phụ nữ ở thời bà sống. Đó là sự tần tảo đảm đang, tay trên đồi, tay dưới ruộng, tay trong nhà, tay ngoài vườn để nuôi đàn con ăn học, trưởng thành có ích cho xã hội.
Có lần tôi được nghe bố mẹ tôi nói chuyện bà là một tiểu thư khuê các ở Hà Nội làm vợ ông trẻ tôi, nên đã theo ông về Yên Bái, làm ruộng sinh sống cùng gia đình nhà chồng. Ai cũng cảm phục vì một cô gái Hà Nội gót đỏ như son đã không quản ngại khó khăn vất vả. Bà học cày, học bừa, học cấy, học gặt… bà học làm ruộng và giỏi như một nông dân thứ thiệt. Bố mẹ tôi bảo: Bà là con gái cụ Xứ Nhu. Lúc đó tôi còn bé cũng không hiểu cụ Xứ Nhu là ai và cũng không dám hỏi leo chuyện người lớn. Sau này tôi mới vỡ lẽ bà là con gái ruột của nhà yêu nước Nguyễn Khắc Nhu, một trong những nhà lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng, là một trong những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái, đánh thực dân Pháp dành độc lập cho đất nước.
Ra trường tôi đi công tác xa ít có dịp về thăm bà. Năm 2009 gia đình tổ chức mừng thọ bà tròn 90 tuổi. Ở tuổi 90 bà vẫn khỏe mạnh, đầu óc minh mẫn, đôi mắt vẫn tinh tường. Bà vui mừng nói với tôi là bà đã được về Bắc Giang dự lễ khánh thành tượng đài nhà yêu nước Nguyễn Khắc Nhu đặt tại khu mộ của gia đình. Nói rồi bà cho tôi xem bức ảnh chụp toàn cảnh khu tượng đài. Bàn tay khô héo của bà nâng niu, vuốt ve tấm ảnh như một báu vật. Ánh mắt bà long lanh nhìn vào khuôn mặt người cha kính yêu. Rồi bà chỉ cho tôi ngôi trường nằm phía sau tượng đài được mang tên: “Trường trung học cơ sở Nguyễn Khắc Nhu”.
Đêm đó tôi ngủ lại với bà, nghe bà tâm sự bao câu chuyện đời thường của một người vợ, người mẹ, người bà đã sống non một thế kỷ, với bao buồn vui của nhân tình thế thái. Nhưng bà nói nhiều nhất về người cha kính yêu. Trong ký ức không bao giờ phai của bà, đó là người cha có tấm lòng nhân hậu, rất mực thương con và sống nhân ái với mọi người. Bà cho biết, Cụ Nguyễn Khắc vốn là dòng họ lớn có nhiều người thành đạt. Làng Song Khê, Yên Dũng, Bắc Giang nơi Nguyễn Khắc Nhu chào đời được dân gian tôn vinh là mảnh đất: “Văn vật danh hương”.
Lúc mới 14, 15 tuổi Nguyễn Khắc Nhu có dịp đi theo một gánh hát chèo, đã được đặt chân đến đại bản doanh của ông Hoàng Hoa Thám, đó là một vùng đất độc lập ngay trong vòng vây của thực dân Pháp. Ý chí vũ trang đánh Pháp dành độc lập cho đất nước đã ăn sâu vào tiềm thức chàng thiếu niên Nguyễn Khắc Nhu từ đó. Người thầy dạy học của Nguyễn Khắc Nhu là cụ cử Đường cũng là một danh sỹ của đất Bắc Hà đã từng tham gia phong trào Cần Vương và phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.
Những câu chuyện kể của bà thấy kính yêu về những hành động anh dũng cứu nước của các anh hùng, nghĩa sỹ đã hun đúc thêm bầu máu nóng của người trai trẻ Nguyễn Khắc Nhu. Đặc biệt có lần Nguyễn Khắc Nhu được thầy giáo cử đi đẫn đường cho cụ Phan Bội Châu từ Nội Duệ đi Yên Thế để gặp Hoàng Hoa Thám. Trong mấy ngày được trò chuyện với nhà yêu nước Phan Bội Châu và được gặp các chiến sỹ Yên Thế đã giúp Nguyễn Khắc Nhu tìm thấy lý tưởng và con đường cứu nước của mình. Bà tôi khẳng định đó là lý do chính làm nên một tâm hồn yêu nước thương dân sâu sắc của Nguyễn Khắc Nhu.
Sau này khi đã là một trong ba người lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ), cha của bà tôi được giao giữ trọng trách: “Trưởng ban lập pháp và kiểm soát” của VNQDĐ. Cụ không chỉ là nhà yêu nước có khuynh hướng vũ trang, mà còn là người quan tâm đổi mới cải tạo theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Cụ Nguyễn Khắc Nhu chủ trương phát triển tiểu thương và thủ công theo yêu cầu mới của thị trường như: Dệt vải khổ lớn, lập hội “Quốc dân dục tài”, nên cụ đã cùng Nguyễn Thái Học quyết tâm đánh Pháp dành độc lập và muốn canh tân đất nước theo hướng mới. Lý tưởng và tâm nguyện ấy cao cả biết bao!
Đêm Yên Bái tĩnh lặng, vầng trăng soi chênh chếch hiên nhà, ngôi nhà lá đơn sơ ở gần nhà máy đá chìm trong ánh trăng, bà ôm lấy tôi thủ thỉ: “Năm 1930 khi người cha hy sinh, bà mới 10 tuổi, cái chết của người cha thân yêu để lại một dấu ấn mất mát vô cùng to lớn trong tâm hồn non nớt của bà. Song sự ra đi vô cùng oanh liệt của người cha khiến bà suốt đời tôn thờ và ngưỡng mộ. Vì cha đã hy sinh cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, đã sống, chiến đấu vì tự do, ấm no, hạnh phúc của người dân. Bà cũng không ngờ sau này mình lại lấy chồng và định cư lâu dài ở Yên Bái, nơi người cha vô cùng yêu quí đã chiến đấu và ngã xuống trên chính mảnh đất này.
Lúc ấu thơ bà ít được gần cha vì cha đi hoạt động cách mạng xa nhà. Từ nhà bà đến Khu tưởng niệm Nguyễn Thái Học và các chiến sĩ trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 ở công viên Yên Hòa chỉ 1 cây số. Bà cảm thấy cha luôn ở bên mình, tiếp thêm niềm tin, nghị lực và tình yêu thương để vượt qua bao sóng gió cuộc đời. Bà coi đó là một ân huệ lớn, một sự bù đắp mà số phận dành cho mình…
Sáng hôm sau tôi cùng bà ra thăm khu tưởng niệm Yên Bái ở công viên Yên Hòa. Một ngày nắng đẹp, mây trời Yên Bái lung linh soi mặt hồ, cô con gái nhỏ Nguyễn Thị Thúc giờ đây mái đầu đã bạc phơ đứng trước tượng đài của cha và các đồng chí của Người, bao nhiêu ký ức lắng đọng và trào dâng. Điều gì lãng quên, điều gì ghi khắc vĩnh hằng trong tâm hồn bà tôi, tôi đã hiểu. Mảnh đất Yên Bái thân thương hơn, đẹp hơn nhờ ánh sáng tỏa mãi từ cuộc đời của những người anh hùng như Nguyễn Khắc Nhu và đồng đội của cụ đã từng sống chết với Yên Bái. Tôi chợt nhớ bài thơ thầy giáo dạy môn sử năm xưa đã đọc cho cả lớp nghe khi dạy bài Khởi Nghĩa Yên Bái, tôi khẽ đọc cho bà nghe:
“Quyên sinh vì dân vì nước vì chủ nghĩa
Thề không cùng sống với quân giặc
Bất tử là danh, là tâm, là tinh thần
Quyết đem cái chết khích đồng bào”
(Nhớ Nguyễn Khắc Nhu – tác giả vô danh)
Nghe xong, bà bảo: “Bà 90 tuổi rồi, đã tận mắt chứng kiến bao đổi thay của quê hương Yên Bái, bà rất mừng. Thành phố ngày càng to đẹp, đời sống người dân ngày càng no ấm hơn… Các cháu là thế hệ hậu sinh, không thể thấm thía bằng thế hệ của bà một điều này: Được sống trong hòa bình trên một đất nước là điều sung sướng nhất đấy cháu ạ.
Tôi ở Yên Bái cũng đã 30 năm, nhưng chính từ những ký ức xưa cũ, đứt nối của bà, ngày hôm nay tôi nhận ra thêm những vẻ đẹp mới của mảnh đất thân yêu này.
Dương Hiền Nga