Hồi Ký cựu Đại Tá Quân lực Việt Nam Cộng Hòa Phạm Bá Hoa (31)

Trang nhà https://vietquoc.org sẽ tiếp tục đang nhiều kỳ về tập: “Hồi Ký của Phạm Bá Hoa”. Sau đây là “Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu Từ Chức”

Tổng Thống Thiệu từ chức

Trong chính trị, không thiếu những cái khôi hài, nhưng khôi hài trong cái gọi là Hoa Kỳ vẫn tiếp tục viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa vào cái lúc mà chính Hoa Kỳ muốn “con bệnh Việt Nam mau được tẩn liệm”, quả là khôi hài đến rơi nước mắt!

Đó là những ngày hạ tuần tháng 4 năm 1975, có những chuyến phi cơ vận tải C.130 và C.141 lác đác đáp phi trường Tân Sơn Nhất, mang theo một số đại bác 105 ly đã dùng rồi, một số mũ sắt không đồng bộ, nghĩa là chỉ có mũ nhựa bên trong mà không có mũ sắt bên ngoài, vài trăm túi cứu thương cá nhân,….. mà báo chí gọi là Hoa Kỳ vẫn viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa!

Thật là tội nghiệp cho chữ nghĩa! Thật ra, đó chỉ là những chuyến phi cơ đến Sài Gòn với nhiệm vụ chính là chuyên chở những tài liệu và máy móc quan trọng của Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam.

Trong khi Việt Nam cần ngay trước mắt 300.000.000,00 mỹ kim bổ sung nhu cầu duy trì khả năng chiến đấu, thì phái đoàn này rồi phái đoàn khác của Hoa Kỳ lần lượt đến Việt Nam gọi là cứu xét để viện trợ, nhưng dường như họ muốn đến tận xứ sở bất hạnh này để xem chương chiến tranh ý thức hệ giữa cộng sản với tự do bao giờ thì bắt đầu xếp vào quá khứ, khi họ đặt những câu hỏi chẳng thiện cảm chút nào trong lúc họ xem “trưng bày” tại võ đình trường Bộ Tổng Tham Mưu, một số vũ khí tịch thu của quân cộng sản. Mà thật ra các giới chức Việt Nam cũng thừa hiểu là họ không có ý tích cực nào trong mục đích nghiên cứu thời sự cho vấn đề viện trợ bổ sung cả, nên Bộ Tổng Tham Mưu cũng chỉ trưng bày một số vũ khí tịch thu của quân cộng sản từ những chiến trường trước chớ không phải từ chiến trường nóng hổi mới đây. Xin nói  thêm rằng, trong tài khóa 1974-1975, Hoa Kỳ viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa 700 triệu  mỹ kim, và đây là lần đầu tiên họ cho biết số ngân khoản viện trợ cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời họ yêu cầu cung cấp cho họ kế hoạch nhận viện, gồm những loại quân dụng nào? Loại đạn nào? Bao nhiêu? ..v..v..  Và Tổng Cục Tiếp Vận đã cung cấp kế hoạch đó cho họ.

Sau khi Phước Long vào tay quân cộng sản, một phiên họp mật được tổ chức tại phòng họp số 2 của Bộ Tổng Tham Mưu, thường gọi là phòng họp “Tân Sinh Nông Thôn”.

Tham dự, về phía Việt Nam có: (1) Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. (2) Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu, với 5 sĩ quan tham mưu của Phòng 3. (3) Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó Tổng Cục Tiếp Vận. (4) Tôi, Đại Tá Phạm Bá Hoa, Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, và 3 sĩ quan nữa của bộ tham mưu chúng tôi.

Phía Hoa Kỳ tham dự, có: (1) Thiếu Tướng Smith, Trưởng Văn Phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Việt Nam. (2) Đại Tá Pelosky, Phụ Tá Thiếu Tướng Smith về Tiếp Vận, và 2 sĩ quan tham mưu của họ.

Mục đích buổi họp là Văn phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ chớ không phải do Bộ Tổng Tham Mưu- trình bày kế hoạch tái tổ chức Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (!) với quân số 472.000 người, và Hoa Kỳ dự trù viện trợ duy trì đội quân này mỗi năm là 600 triệu mỹ kim. Họ yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nghiên cứu lại các bảng cấp số của từng loại đơn vị để quân số tham gia tác chiến được 65%. Tất nhiên là buổi họp còn thảo luận nhiều chi tiết nữa.

Xin được nhấn mạnh là họ đã có kế hoạch rút chân ra khỏi Việt Nam trước một tình hình cực kỳ nguy hiểm-bằng chứng là lời của Thiếu Tướng Smith đã nói trong bữa ăn tối nhân Giáng Sinh năm 1974- mà họ lại ra cái điều vẫn quan tâm đến tương lai Việt Nam khi họ đưa ra kế hoạch tái tổ chức quân đội, nghiên cứu kế hoạch viện trợ bổ sung. Ngôn ngữ chính trị là như vậy đó! Nói vậy, nhưng không nhất thiết là như vậy đâu, mà tùy thuộc nhiều yếu tố khác nhau để hiểu loại ngôn ngữ này.

Đành rằng, những đòi hỏi cấp bách trong nội bộ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ kết thúc sự can dự của Hoa Kỳ vào chiến tranh chống cộng sản tại Việt Nam, cho nên từ lời nói ngoại giao đến hành động cũng ngoại giao của Hoa Kỳ, chỉ là chuyện đầu môi chót lưỡi của những nhà chính trị cũng như quân sự thôi. Thủ đoạn của những nhà chính trị là điều cần thiết trong phòng thủ hay tấn công đối phương, thậm chí sử dụng ngay cả các quốc gia đồng minh nữa, nhưng thủ đoạn mà Hoa Kỳ sử dụng đối với Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, một quốc gia mà Hoa Kỳ thừa nhận là tuyến đầu chống cộng sản quốc tế tại Đông Nam Á Châu, quả là thiếu liêm sĩ trong lãnh đạo!

Tôi nghĩ, đây là bài học lãnh đạo mà thế hệ chúng ta không bao giờ quên, bởi vì nó cay đắng quá, bi thảm quá! Và những thế hệ sau chúng ta, nên gìn giữ bài học chứa đựng quá nhiều xương máu của dân tộc trong hành trang vào đời, để nghiền ngẫm mà phục vụ nguyện vọng toàn dân dù ở bất cứ cương vị nào trong xã hội.     

Xin mời quí vị quí bạn rời khỏi cái phòng họp gần suốt buổi sáng, nơi ẩn chứa một không khí đầy dối trá trong chính trị lẫn quân sự từ một cường quốc “đồng minh”, để nhìn vào một thực tại bi thảm của chúng ta!

Với những cuộc rút lui hỗn loạn của Quân Đoàn I, Quân Đoàn II, và phần lớn của Quân Đoàn III, trong khi toàn lãnh thổ Quân Đoàn IV gồm 16 tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, chưa có những trận đánh quan trọng nào, và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn IV, đã ra lệnh báo động cho Sư Đoàn 7 Bộ Binh, Sư Đoàn 9 Bộ Binh, Sư Đoàn 21 Bộ Binh, Sư Đoàn 4 Không Quân, cùng với Hải Quân, và các đơn vị tác chiến khác -kể cả Địa Phương Quân Nghĩa Quân- sẵn sàng chống trả các cuộc tấn công của quân cộng sản. Và cũng đến lúc này (20/4/1975), chưa thấy chỉ dấu nào về một thảm trạng rút lui hay bỏ chạy trong phạm vi Quân Đoàn IV cả. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, vốn dĩ là mẫu người hiền hòa nhưng rất cương quyết. Ông rất quan tâm và chăm sóc đời sống của quân nhân thuộc quyền. Tư cách và uy tín của ông, hoàn toàn chinh phục được những vị Tướng Lãnh và quân nhân  thuộc quyền.

Tổ Quốc đang trong cảnh mất mát suy tàn, với vô vàn đau thương cho tất cả các tầng lớp trong xã hội, nhất là đối với những gia đình từ các tỉnh Cao Nguyên và Duyên Hải miền Trung, đã bỏ của chạy lấy người vào sống nhờ sống tạm trên phần đất mong manh còn lại này, thì tình hình chính trị nội bộ lại lung lay tận gốc rễ. Những tin đồn đoán nào là Đại Tướng Dương Văn Minh đảo chánh, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảo chánh, nào là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bị áp lực từ chức, ..v..v.. được truyền đi từ người này sang người khác, nhưng thật sự thì chẳng mấy ai biết những tin đó xuất phát từ đâu cả. Thông thường thì những loại tin như vậy cũng không phải hoàn toàn vô căn cứ, nếu nó xảy ra thì trở thành sự thật nhưng nếu nó không xảy ra thì xếp vào loại câu chuyện làm quà hoặc câu chuyện lúc trà dư tửu hậu để tỏ ra mình nắm vững thời cuộc.

TT Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức 21/04/1975

Trong loạt tin đồn đoán lần này, có một tin xảy ra đúng như vậy, đó là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vị Tổng Thống thứ nhì của Việt Nam Cộng Hòa và là Tổng Thống thứ nhất của nền đệ nhị Cộng Hòa, tuyên bố từ chức vào tối 21 tháng 4 năm 1975, sau khi ông mạnh mẽ cáo giác Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh Việt Nam (!) Và ông cũng tuyên bố rằng, “Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu bên cạnh anh em chiến sĩ”.  Ý nói là Trung Tướng (Thiệu) sẽ tiếp tục phục vụ trong hàng ngũ quân đội. Trước đó, ngày 4/4/1975, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đã từ chức và bàn giao chức vụ Thủ Tướng cho Dân Biểu Nguyễn Bá Cẩn, đương nhiệm Chủ Tịch Hạ Nghị Viện.

Lúc bấy giờ có dư luận cho rằng, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đang được quân đội ủng hộ để trong một tình huống nào đó sẽ thay thế Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vì quân đội đang bị Tổng Thống Thiệu đưa chính trị vào “cướp quyền” lãnh đạo của các cấp chỉ huy, và đó là lý do Tổng Thống Thiệu cách chức Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm dưới hình thức từ chức. Về phần tôi, tôi không thu thập được gì trong các cơ quan sở tại Bộ Tổng Tham Mưu về điều đồn đoán này, nhưng tôi tin là có điều gì đó tựa như “cơm không lành canh không ngọt” giữa Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu với Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm.

Xin nhắc lại. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm lưu vong từ ngày 7 tháng 10 năm 1964, sau đó giữ chức Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ. Chuyển sang nhiệm sở tại Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) từ tháng 10 năm 1965. Đến tháng 5 năm 1968, về Việt Nam giữ chức Tổng Trưởng Nội Vụ. Đầu năm 1969, giữ chức Phó Thủ Tướng. Và đến đầu tháng 9 năm 1969, thay giáo sư Trần Văn Hương trong chức vụ Thủ Tướng. Rồi khi Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ bị cách chức Tổng Trưởng Quốc Phòng năm 1972 vì vụ Quỹ Tương Trợ và Tiết Kiệm Quân Nhân, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm kiêm nhiệm thêm chức vụ này.

Trong những năm chiến tranh chưa đến hồi khốc liệt và được viện trợ đầy đủ, Tổng Thống, Thủ Tướng, sát cánh với quân đội và toàn dân chiến đấu chống cộng sản, nhưng khi tổ quốc thật sự lâm nguy thì hai vị lãnh đạo cao nhất nước, đã kế tiếp nhau chuyển giao chức vụ cho hai vị khác trước cơn dầu sôi lửa bỏng của đất nước nhỏ bé và bất hạnh triền miên này! Sau đó, hai vị đã âm thầm bỏ tổ quốc Việt Nam, nơi mà quí vị được sinh ra và lớn lên. Quí vị bỏ quân lực Việt Nam Cộng Hòa, một quân đội đã từng đưa quí vị lên tột đỉnh quyền uy danh vọng. Và quí vị bỏ gần 20 triệu đồng bào mà chính Họ đã từng bỏ phiếu bầu một trong hai vị vào chức vụ Tổng Thống trong hai nhiệm kỳ để lo bảo vệ đất nước, lo chăm sóc người dân. Nói chung là quí vị bỏ lại đằng sau tất cả, để rồi quí vị lặng lẽ rời khỏi Việt Nam trong đêm tối trước ngày dân tộc Việt Nam bị cộng sản độc tài cai trị! Còn gì để nói đây!

Nếu sau này quí vị có nói gì với dân tộc Việt Nam khốn khổ này, xin quí vị đừng nói rằng quí vị từ chức chỉ vì Hoa Kỳ không còn viện trợ nên không đủ phương tiện để tiếp tục chống cộng sản nữa! Tôi nghĩ, quí vị đừng nói gì cả thì vấn đề sẽ không tệ thêm, vì quí vị là những người lãnh đạo quốc gia! 

Theo đúng Hiến Pháp, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đã tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống hai ngày sau đó. Và trên làn sóng đài phát thanh Hà Nội, cộng sản nêu yêu sách và có vẻ như Hoa Kỳ đồng lõa với họ để gây áp lực buộc tân Tổng Thống Trần Văn Hương giao chức vụ này cho nhân vật không dự liệu trong Hiến Pháp 1967. Đó là Đại Tướng Dương Văn Minh. Và điều lạ là Đại Tướng Minh sẵn sàng nhận chức Tổng Thống không hợp hiến từ tay Tổng Thống hợp hiến Trần Văn Hương.

Tân Tổng Thống Trần Văn Hương là một nhà giáo mẫu mực, liêm khiết, một nhà chính trị với tất cả nhiệt tình vì quốc gia dân tộc, và là một nhà lãnh đạo rất bình tỉnh thận trọng. Ông yêu cầu triệu tập Quốc Hội để có quyết định và ông sẽ tôn trọng quyết định đó. Điều này cho thấy Tổng Thống Trần Văn Hương không tham quyền cố vị, nhưng ông không thể tự mình chuyển giao chức vụ như vậy được, vì Hiến Pháp không dự liệu điều khoản nào cho trường hợp tương tự.

[Bấm vào đọc bài trước]

[Bấm Vào Đọc Tiếp Chương Kế]

Sáng Lập Đảng

Nguyễn Thái Học người Sáng Lập Việt Nam Quốc Dân Đảng

Tìm Bài Theo Tháng

Tự Điển Hỏi Ngã Tiếng Việt