Hồi Ký cựu Đại Tá Quân lực Việt Nam Cộng Hòa Phạm Bá Hoa (2)
Đọc hồi ký của cựu đại tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Phạm Bá Hoa từ ngày đảo chánh cố tổng thống Ngô Đình Diệm đến ngày mất miền Nam 30/04/1975, chúng ta tìm ra những điểm then chốt của lịch sử: Ai giết cố TT Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu – Những chính biến trong nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa đến mất miền Nam Việt Nam ra sao? Ông viết ra những gì mắt thấy, tai nghe dưới dạng truyện kể trong suốt thời gian giữ nhiệm vụ một Chánh Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng quân lực VNCH, luôn bên cạnh các nhân vật lãnh đạo miền Nam Việt Nam. Đây là một tài liệu có nhiều điều bổ ích cho sử liệu và bài học cho thế hệ mai sau. Một tài liệu có giá trị và có mức độ trung thực cao. Trang nhà https://vietquoc.org sẽ tiếp tục đang nhiều kỳ về tập: “Hồi Ký của Phạm Bá Hoa”. Sau đây là “Đảo Chánh 1/11/1963” (phần 1) …
Đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 (phần 1)
Ngày 06/05/1963, Đổng Lý văn phòng Phủ Tổng Thống gởi công điện yêu cầu các địa phương không được treo cờ Phật Giáo ngoài khuôn viên chùa, theo đúng tinh thần Dụ số 10 ngày 6/8/1950.
Ngày 08/05/1963, đại lễ Phật Đản, nhưng cơ quan chánh quyền tại Huế cấm các chùa cũng như gia đình Phật tử không được treo cờ Phật Giáo. Đông đảo Phật tử đến trước đài phát thanh Huế để nghe chương trình phát thanh của vị lãnh đạo Phật Giáo địa phương, nhưng chương trình đó không thực hiện. Thế là đám đông trước đài phát thanh biến thành cuộc mít tinh lên tiếng phản đối, gây mất trật tự nơi đây. Thiếu Tá Đặng Sỹ, Phó Tỉnh Trưởng Nội An chỉ huy Cảnh Sát với Quân Đội đến vãn hồi an ninh trật tự. Trong tình hình rối ren đó, một tiếng nổ lớn gây thiệt mạng 7 thiếu nữ từ 12 đến 19 tuổi chết tại chỗ và một số bị thương. Chánh quyền địa phương cho là cộng sản gây ra nhưng không trưng dẫn được bằng chứng.
Vài ngày sau đó, Thượng Tọa Thích Tịnh Khiết, vị lãnh đạo tối cao của Phật Giáo đã gởi bản Tuyên Ngôn lên chánh phủ, trong đó, Phật Giáo đòi được hưởng chế độ ngang hàng với Thiên Chúa Giáo. Chánh phủ đã bắt giam nhiều chức sắc lãnh đạo của Phật Giáo tại nhiều nơi, nhất là tại Huế.
Ngày 11/06/1963, Thượng Tọa Thích Quảng Đức, trụ trì ngôi chùa ở Quận Phú Nhận tỉnh Gia Định, đến ngồi ngay ngã tư đại lộ Lê Văn Duyệt với đường Phan Đình Phùng, trung tâm thủ đô Sài Gòn, trước ống kính của rất nhiều nhà báo Việt Nam và ngoại quốc. Rồi sau đó, lần lượt thêm bảy tám vụ tự thiêu nữa tại các tỉnh. Không khí chính trị sôi sục với những cuộc mít tinh biểu tình của đông đảo sinh viên học sinh, đồng bào -nhất là đồng bào Phật tử- lác đác có cả quân nhân viên chức và cảnh sát nữa. Nhiều phóng viên báo chí truyền thanh truyền hình ngoại quốc -nhất là Hoa Kỳ- đến Việt Nam ghi nhận và đánh giá tình hình.
Trước khi hết giờ làm việc chiều ngày 20 tháng 8 năm 1963, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, gọi tôi vào văn phòng:
“Tối nay, chú với mấy chú văn phòng làm việc tại đây. Chú cho mấy chú luân phiên về dùng cơm rồi trở lại ngay. Chú cần hỏi gì thêm không?”
“Có cần ngủ lại đây không, thưa Thiếu Tướng?”
“Có thể không cần. Sẽ có lệnh sau”
Đây là lần đầu tiên kể từ khi cầm quyền ngày 7/7/1954, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra lệnh Bộ Tổng Tham Mưu ban hành lệnh thiết quân luật trong phạm vi Quân Trấn Sài Gòn để Cảnh Sát cùng mật vụ bao vây các chùa, tìm bắt Thượng Tọa Thích Trí Quang, vị sư được xem là lãnh đạo Phật Giáo. Nhưng Thượng Tọa Trí Quang đã vượt rào vào khuôn viên tòa đại sứ Hoa Kỳ và được phép tạm trú nơi đây.
Thế là, từ đòi hỏi trong bản Tuyên Ngôn không được giải quyết, đến các vụ tự thiêu để phản đối chánh phủ, rồi đến vụ nhà cầm quyền vây bắt hụt Thượng Tọa Thích Trí Quang, dần dần đẩy Phật Giáo đến cuộc tranh đấu vừa ôn hòa vừa bạo động tại hầu hết các tỉnh miền Trung và một số tỉnh miền Nam, đã làm cho tình hình chung của Việt Nam Cộng Hòa trở nên tệ hại hơn hết, kể từ sau Hiệp Định Đình Chiến Genève tháng 7 năm 1954. Đó là phản ứng quyết liệt của giáo hội Phật Giáo và nhiều Phật tử trên toàn quốc.
Với một tình hình như vậy, đã làm cho hầu hết các nước trong khối Tự Do, kể cả Hoa Kỳ là quốc gia ủng hộ Tổng Thống Ngô Đình Diệm mạnh mẽ nhất, đều phản đối chính sách tôn giáo trong hành động đàn áp bắt giữ các chức sắc Phật Giáo và Phật tử Việt Nam. Trước dư luận quốc nội lẫn quốc tế, Tổng Thống Ngô Đình Diệm khó mà biện minh chính sách kỳ thị tôn giáo, cho dù lệnh cấm treo cờ Phật Giáo cũng như lệnh dùng bạo lực trực tiếp hay không trực tiếp do Tổng Thống ban hành cũng vậy. Vì thuở ấy, quyền lực rất lớn trong tay hai em của Tổng Thống là ông Ngô Đình Nhu “Cố Vấn Chính Trị”, và ông Ngô Đình Cẩn “Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung”.
Ông Ngô Đình Diệm, được Quốc Trưởng Bảo Đại mời về Việt Nam vào giữa năm 1954 và nhận chức Thủ Tướng ngày 7 tháng 7 năm 1954.
Cựu Hoàng Đế Bảo Đại là vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, đã bị Việt Minh cộng sản cưỡng bách thoái vị từ mùa thu năm 1945.
Ngày 5/6/1948, trên chiến hạm Duguay Trowin của Pháp trong vịnh Hạ Long, Ông cùng một số chính khách đại diện cho 3 miền Nam Trung Bắc Việt Nam, chứng kiến ông Bollaert Cao Ủy Toàn Quyền Pháp tại Đông Dương (gồm 3 nước: Việt Nam, Cam Bốt, và Lào) với Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân, chánh phủ Nam Kỳ Quốc, ký tên bản Hiệp Ước công nhận Việt Nam là quốc gia thống nhất và độc lập trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp. Danh xưng Việt Nam là “Quốc Gia Việt Nam”.
Ngày 8/3/1949, tại điện Élysée (Paris) Tổng Thống Pháp là ông Auriol với ông Bảo Đại ký Hiệp Ước chánh thức hóa Hiệp Ước vịnh Hạ Long ngày 5/6/1948, đồng thời Pháp sẽ thành lập cho Việt Nam một quân đội quốc gia.
Ngày 25/4/1949, cựu Hoàng Đế Bảo Đại từ Pháp trở về Việt Nam. Ngày 1/7/1949, thành lập chánh phủ của một quốc gia thống nhất. Với chức vụ cao nhất nước cho dù bị giới hạn quyền hành, nhưng ông đã không tận dụng thực dân Pháp để vừa xây dựng quốc gia non trẻ vừa chống lại chủ nghĩa cộng sản đang bắt rễ tại Việt Nam, mà ông lại sống trên đất Pháp nhiều thời gian hơn là có mặt trên quê hương Việt Nam đầy sóng gió!
Ngày 21/1/1950, Quốc Trưởng Bảo Đại cử ông Nguyễn Phan Long thành lập chánh phủ, và ngày 4/2/1950 Hoa Kỳ công nhận quốc gia Việt Nam. Ngày 15/5/1950, Quốc Hội Pháp ban hành Luật thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam với 60.000 quân do Pháp trang bị và chỉ huy.
Ngày 23/12/1950, Việt Nam-Pháp-Hoa Kỳ cùng ký “Hiệp Ước Hỗ Tương Phòng Thủ & Viện Trợ Quân Sự” cho Việt Nam. Danh xưng của quân đội là “Quân Đội Quốc Gia Việt Nam”.
Ngày 28 và 30/04/1955, Quốc Trưởng Bảo Đại từ thành phố Cannes (Pháp) gọi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm sang nhận lệnh,
nhưng Thủ Tướng không thi hành. Có vẻ như Thủ Tướng trông chờ quyết định của đại hội chính trị do ông Nguyễn Bảo Toàn tổ chức trong ngày 29/4/1955 với sự tham dự của 18 đảng phái chính trị và 20 nhân sĩ Việt Nam. Đại hội kết thúc với quyết định: “(1)Truất phế quốc Trưởng Bảo Đại. (2) Giải tán chánh phủ hiện tại. (3) Ủy nhiệm ông Ngô Đình Diệm thành lập chánh phủ. (4) Tổ chức tổng tuyển cử”.
Ngày 23/10/1955, Thủ Tướng tổ chức cuộc trưng cầu dân ý với mục đích người dân có “đồng ý hay không đồng ý” truất phế Quốc Trưởng. Kết quả, người dân đồng ý truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại. Ba ngày sau đó, 26/10/1955, chánh phủ ban hành Hiến Ước Lâm Thời, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố Việt Nam theo chế độ Cộng Hòa, và ông trở thành Tổng Thống. Từ đó, danh xưng quốc gia Việt Nam là “Việt Nam Cộng Hòa”, và danh xưng của quân đội là “Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa”.
Tiếp theo là bầu cử Quốc Hội Lập Hiến vào ngày 4/3/1956 với 123 vị Dân Cử để soạn thảo Hiến Pháp. Ngày 26/10/1956, ban hành Hiến Pháp và hủy bỏ Hiến Ước Lâm Thời. Đây là lần đầu tiên, Việt Nam có một văn bản Luật cao nhất, qui định chế độ chính trị cùng với toàn bộ cơ cấu sinh hoạt quốc gia. Từ năm 1957, ngày 26 tháng 10 được chọn là Ngày Quốc Khánh Việt Nam Cộng Hòa.
Theo qui định trong Hiệp Định Đình Chiến ngày 20/07/1954 tại Genève, Thụy Sĩ, ngày 15/03/1956, quân đội viễn chinh Pháp hoàn toàn rút khỏi Việt Nam. Từ đó, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa thật sự toàn quyền chỉ huy quân đội .
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trong những năm đầu cầm quyền, với sự ủng hộ mạnh mẽ của Hoa Kỳ, đã được nhiều quốc gia trên thế giới công nhận và thiết lập bang giao. Ông đã ổn định được cuộc sống cho non một triệu người từ miền Bắc chạy trốn chế độ cộng sản trước khi chúng tiến vào các thành phố trên đất Bắc theo Hiệp Định đình chiến Genève ngày 20/07/1954. Hiệp Định này chia đôi Việt Nam tại vĩ tuyến 17 mà trên địa thế là sông Bến Hải với cầu Hiền Lương. Từ vĩ tuyến 17 trở lên Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa theo chế độ độc tài do đảng cộng sản Việt Nam cai trị. Từ vĩ tuyến 17 trở xuống Nam là nước Việt Nam Cộng Hòa theo chế độ dân chủ tự do. Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng đã cải thiện được tình hình kinh tế xã hội trong mức độ khả quan.
Về quân sự. Với sự cố vấn của phái bộ quân sự Hoa Kỳ, quân đội đã được tổ chức lại và phát triển từ cấp Tiểu Đoàn lên cấp Trung Đoàn, Sư Đoàn, Quân Đoàn, trên căn bản quân đội trong chiến tranh qui ước. Mọi dụng cụ chiến tranh trang bị cho quân đội, đều do Hoa Kỳ cung cấp.
Về chính trị. Ông đã thành công đáng kể trong nỗ lực ôn hòa lẫn sử dụng võ lực trong mục đích đem lực lượng võ trang của Bình Xuyên, của Hòa Hảo, và Cao Đài về hợp tác hoặc giải thể. Lực lượng võ trang Phật Giáo Hòa Hảo và Cao Đài, là hai lực lượng chống cộng sản quyết liệt.
Đó là sự thành công bước đầu không ai phủ nhận được. Nhưng, dần đần về sau, chế độ dưới quyền Tổng Thống, trong một mức độ nào đó, đã thể hiện tính cách “gia đình trị”, bởi vì ngoài Tổng Thống ra, còn có:
Thứ nhất, em trai Ngô Đình Nhu trong chức vụ Cố Vấn Chính Trị, và vợ ông Nhu là bà Trần Lệ Xuân, rất nhiều quyền lực trong tay, một phần có thể là Tổng Thống Diệm vẫn còn độc thân nên vị trí của bà trong một mức độ nào đó, như đệ nhất phu nhân.
Thứ nhì, em trai Ngô Đình Cẩn trong chức vụ không hề có trong tổ chức quốc gia là Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung, ông sống độc thân. Là người không có văn bản bổ nhiệm nhưng lại có toàn quyền đối với các tỉnh duyên hải miền Trung, đặc biệt là các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên/Huế, Quảng Nam Đà Nẵng, Quảng Tín, và Quảng Ngãi. Quyền lực của ông có thể ví bằng “vị sứ quân” của 5 tỉnh này.
Thứ ba, anh trai Ngô Đình Thục, Giám Mục địa phận Vĩnh Long, và từ năm 1960 là Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Huế. Tuy là chức sắc lãnh đạo trong tôn giáo, nhưng tiếng nói của ông ảnh hưởng rất lớn đối với công việc chánh quyền mà các em của ông nắm giữ.
Thứ tư, em trai Ngô Đình Luyện, Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Anh quốc, được xem là người ít dính dáng đến những điều tệ hại mà các anh của ông gây ra trên quê hương Việt Nam.
Khi viết lại đoạn trên đây tôi vẫn hiểu rằng, anh em thân thuộc với Tổng Thống, (hay Thủ Tướng, Bộ Trưởng, Tướng Lãnh, ..v..v.. ), tự đó không phải là cái tội, vì vị lãnh đạo không bổ nhiệm người này cũng phải bổ nhiệm người khác. Chỉ khi nào, người thân thuộc đó lợi dụng quyền lực người thân đã bổ nhiệm mình mà ngang nhiên hành động vi phạm luật pháp, lúc đó là có tội. Khi tội trạng phơi bày, người đó có bị luật pháp trừng phạt như bất cứ người công dân nào khác hay không, đó là vấn đề cần được đánh giá đúng mức.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và hai em của ông là Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, đã lần lượt loại trừ một số nhà chính trị đối lập qua những hành động trong khuôn khổ luật pháp lẫn ngoài luật pháp.
Rồi đến những lời lẽ cứng rắn của bà Trần Lệ Xuân -em dâu ông- tại các diễn đàn quốc tế cũng như quốc nội, đặc biệt là trong thời gian xảy ra cuộc đàn áp Phật Giáo nhiều nơi trên toàn quốc. Bà đã nhiều lần chỉ trích công khai với vẻ miệt thị và tàn nhẫn về những vụ tự thiêu của các nhà sư phản đối chánh quyền.
Những sự kiện đó đã đưa người dân từ ủng hộ chánh phủ lúc đầu, dần dần trở nên bất mãn, đến mức căm thù chế độ mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người trách nhiệm chính, vì Tổng Thống là người lãnh đạo quốc gia.
Vậy, sự kiện giải tán Phật Giáo ngày 08/05/1963 dẫn đến sự kiện 7 Phật tử chết cùng với một số bị thương, và những hành động tệ hại tiếp theo, là nguyên nhân quốc nội dẫn đến cuộc đảo chánh ngày 01/11/1963. Tôi nói “nguyên nhân quốc nội”, vì theo tôi, còn có “nguyên nhân quốc tế” nữa.