“Gương Thành Công” – Đề Đốc Chester W. Nimitz
Một người thành công trên đời đều mang một đức tính lạ thường. Những đức tính đó xem ra thật kỳ lạ nhưng đó cũng là đặc điểm của con người thành công. Tựu trung, danh ngôn “thiên tài là do sự cố gắng lâu dài” hiện hữu ở trong hầu hết những vĩ nhân trên thế giới. Cuốn sách “40 Gương Thành Công” của tác giả Dale Carnegie sẽ gửi đến từng câu chuyện để các bạn thưởng thức và chiêm nghiệm…Đây là gương thành công của Đề Đốc Chester W. Nimitz (1885-1996) tư lệnh Thái Bình Dương tướng tài ba của binh chủng Hải Quân Hoa Kỳ…
Đề đốc Chester W. Nimitz đã là tư lệnh của hạm đội lớn nhất thế giới từ trước đến nay, là vị tổng tư lệnh khu vực Thái Bình Dương, một khu vực lớn gần bằng hai mươi lần nước Hoa Kỳ, một đại dương rộng hơn cả Nam Mỹ, Bắc Mỹ, Âu Châu, Á Châu, Phi Châu và Úc Châu gộp lại. Ông thắng ở Midway một trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử, mà khi ông lãnh chức chỉ huy hạm đội Thái Bình Dương, hồi cuối năm 1941, hai mươi bốn ngày sau trận Trân Châu Cảng, ông phải đương đầu với một tình hình cực kỳ thê thảm: Hoa Kỳ mới thua một trận thủy chiến tai hại nhất trong lịch sử của họ.
Ngày mùng Bảy tháng Chạp năm 1941, buổi sáng, lúc 8 giờ thiếu 5 phút, hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ có tám chiếc thiết giáp hạm. Hai giờ sau, năm chiếc đã nằm dưới đáy biển Trân Châu Cảng vì trúng bom Nhật. Trong số đó có chiếc Arizona, hồi trước treo cờ hiệu của Đề đốc. Ba chiếc còn lại bị hư nặng, phải đem về sửa chữa ở Hoa Kỳ. Thực là một tai họa nặng nề. Người Hoa Kỳ biết vậy. Mà người Nhật cũng biết vậy.
Người Nhật biết rằng hạm đội Hoa Kỳ thiếu chiến hạm, thiếu phi cơ, thiếu đại bác phòng không, thiếu tiềm thủy đĩnh, thiếu khí giới, thiếu mọi thứ quân nhu. Nếu họ biết rằng Hoa Kỳ chỉ còn một trăm bảy mươi sáu phi cơ chiến đấu để che chở cả khu vực mênh mông là Thái Bình Dương thì họ còn ngạc nhiên hơn nữa. Mà ai cũng biết rằng quân Nhật sẽ đánh nữa, đánh mạnh và mau, trong khi Hoa Kỳ còn yếu.
Trong những điều kiện đó, Tổng thống Roosevelt biết rằng muốn thắng quân Nhật thì trước hết phải gửi tới Trân Châu Cảng một vị tư lệnh có đủ tài ba. Và ông lựa Đề đốc Chester W. Nimitz.
Đề đốc đi từ Hoa Thịnh Đốn qua Trân Châu cảng phải mạo hiểm, lén lút như một nhân vật trong truyện phiêu lưu hoặc trinh thám. Ông đem theo những tài liệu bí mật của chính phủ về những tổn thất của hạm đội do quân Nhật gây ra. Chính phủ biết rằng đội do thám Nhật muốn nắm được những tài liệu đó, và nếu có thể được, giết Đề đốc Nimitz để cướp lấy. Vì vậy, muốn cho không ai nhận được ra mình. Đề đốc phải đổi tên là Wainwright, bận đồ thường, đi từ Hoa Thịnh Đốn tới California, ông chứa tài liệu bí mật bằng túi may vải bố của vợ, cho người ta khỏi để ý tới.
Tại sao Tổng thống Roosevelt đã chọn ông trong số những thủy sư khác để giao trách nhiệm lớn lao đó? Về tuổi tác, ông còn kém hai mươi tám thủy sư khác, mà ông nhảy lên chức vị trên họ, chỉ huy chẳng riêng gì hạm đội Thái Bình Dương mà luôn cả khu vực Thái Bình Dương. Ông được uy quyền mênh mông như vậy, phần lớn là nhờ ông có bốn đức hơn người.
Trước hết ông nhiều kinh nghiệm và hiểu rộng về hải quân. Ít năm sau khi ở Hàn lâm viện Hải quân ra, ông xin được bổ dụng trong một chiến hạm. Nhưng trái hẳn với ý muốn, ông bị đưa tới một tiềm thủy đĩnh, trong đó hơi ở máy đưa ra muốn nghẹt thở.
Mặc dầu đời sống trong tiềm thủy đĩnh cực khổ và nguy hiểm, ông cũng hăng hái yêu nghề vì ông biết rằng tiềm thủy đĩnh sau này ảnh hưởng rất sâu xa tới thuật hải chiến. Nhờ vậy năm 1913, mới hai mươi bảy tuổi ông đã được làm tư lệnh đội tiềm thủy đĩnh Hoa Kỳ ở Đại Tây Dương và trong đại chiến thứ nhất, ông phục sự quốc gia với chức đó. Sau này, ông xây cất và chỉ huy một căn cứ tiềm thủy đỉnh ở Trân Châu cảng.
Rồi ông học được nhiều kinh nghiệm về mọi hoạt động của hải quân, ai cũng trọng ông vì tài và sức hiểu biết của ông. Hồi mới vô nghề, có lần ông chỉ huy một khu trục cũ. Chiếc tàu thình lình rĩ nước. Nước vô nhiều quá, bơm ra không kịp. Viên kỹ sư coi máy hốt hoảng hướng lên boong tàu, hỏi lớn tiếng:”Thưa, tàu muốn chìm, tôi phải làm sau đây?”.
Từ trên boong tàu, ông đáp:”Lật cuốn Engineering Manual của Barton, trang 84, mà coi sẽ thấy phải làm gì trong trường hợp như vậy”. Viên kỹ sư nghe theo và cứu được chiếc tàu.
Đức thứ nhì của Đề đốc Nimitz là ông hăng hái muốn biết tất cả các loại tàu. Ông nói:”Tôi thích tất cả các chức vụ của tôi, sở dĩ vậy là vì tôi muốn hiểu rõ bất kỳ một hoạt động nào?”.
Đức thứ ba của Đề đốc là tài điều khiển người. Ông rộng rãi khi khen, thưởng. Trong hải quân không ai được trọng và mến như ông.
Foster Hailey đã sống hai năm trên Thái Bình Dương, đã nói chuyện với cả ngàn sĩ quan hải quân và đã viết một bài báo trên New York Times ở Nữu Ước nói rằng không hề nghe một người nào chỉ trích Nimitz.
Đức thứ tư của Nimitz là đức bình tĩnh trong những lúc nguy kịch. Coi cách ông chỉ huy ở Trân Châu Cảng cũng đủ biết.
Khi ông mới tới đó, các sĩ quan lục quân và hải quân lo lắng, vội vàng chạy lại phòng giấy của ông, và phần đông khi ở phòng giấy ra đều vui vẻ, tự tin trở lại. Có lần các nhà báo, bị kích thích quá, nóng nảy hỏi ông về những chương trình tác chiến sau này, ông đáp:”Để trả lời những câu hỏi đó, tôi nghĩ, không còn gì hơn là mượn một câu tục ngữ của dân bản xứ ở Hạ Uy Di này, câu “Hoo mana wahui” Câu đó nghĩa là: “Thời gian sẽ thu xếp mọi việc”.
Thực vậy, thời gian đã thu xếp mọi việc, bạn hỏi người Nhật thì biết.
(…) Đề đốc Nimitz luôn luôn có lễ độ. Sau khi đánh tan nát hạm đội Nhật trong trận Midway, ông bay về bờ biển phía Tây Hoa Kỳ để hội nghị với Đề đốc Ernest J. King. Khi phi thuyền của ông đến, thì một tai nạn làm ông suýt chết. Một khúc gỗ lớn trôi, đâm bể bụng phi thuyền, rồi cắm vào mũi nó, làm nó lùi lại phía sau. Viên lái phụ bị tử thương. Đề đốc bị vài vết bầm và bị trật xương. Người ta đưa những người sống sót lên bờ, trong khi ấy, ông đứng ở mũi thuyền, áo quần ướt đẫm. Người chèo thuyền mới đầu vô ý không nhận ra ông, bèn la lớn, bảo ông:”Ê, chú kia, ngồi xuống!” Và viên tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương vui vẻ vâng lời. Người chèo thuyền ngó lại kỹ, mắt anh ta trố ra, tim anh ta muốn ngưng đập. Anh ta bắt đầu xin lỗi và lắp bắp, không nên tiếng. Đề đốc mỉm cười:”Chú cứ làm phận sự của chú. Chú có lỗi gì đâu?”.
Mỗi buổi sáng, ông đi bộ một giờ trước khi điểm tâm, mỗi tuần ông lội bộ hai cây số, chơi quần vợt, mỗi sáng ông tập bắn mười hai phát súng sáu để luôn luôn được thuần tay.
Ông biết cách nghỉ ngơi hoàn toàn nên mới làm được những trách nhiệm mà người thường không sao gánh nỗi. Mỗi buổi trưa, ông tắm nắng một lúc.
Đêm mà nhà hàng Breaker ở Waikiki được biến đổi thành một trung tâm tiếp các người đầu quân, người ta chụp hình Đề đốc đầu bạc khiêu vũ với một thiếu nữ má hồng. Bộ hải quân thích tấm hình đó, muốn đưa lên báo để quảng cáo, nhưng ông già khôn ngoan nắm ngay tấm hình đầu tiên, gởi máy bay về cho bà vợ, để người khác không kịp đưa bà coi trước. Ông già đã giỏi chiến thuật mà cũng giỏi tâm lý nữa!
(…) Năm 1905, khi ông ở trường sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ, Annapolis ra, trong cuốn sổ mỗi năm của trường, ghi về ông như vầy:“Một người vui vẻ về dĩ vãng và tin tưởng ở tương lai”. Theo tôi, không lời nhận xét nào đúng hơn lời đó.