Đảng Cộng Sản Việt Nam là thủ phạm của vụ Vinashin
Công ty quốc doanh lớn nhất Vinashin của chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã bị phá sản. Ai la thủ phạm.
Ðảng Cộng Sản là thủ phạm vụ Vinashin
Ở một nước bình thường, trong một nền kinh tế thị trường thật sự, một cơ sở kinh doanh như Tập đoàn Vinashin sẽ phải tuyên bố phá sản, đem tổ chức lại theo pháp luật, hoặc cho chết luôn. Vinashin có số công nhân 60,000 người, con số lớn nhưng không thể so sánh với những đại công ty như General Motors với 243,000 nhân viên hay nhóm cửa hàng bán lẻ Kmart với 244,000 nhân viên. Cả hai công ty Mỹ đó đã được tuyên bố phá sản. Những công ty lớn như Enron với tổng cộng tài sản 62 tỷ Mỹ kim, WorldCom trị giá 107 tỷ Mỹ kim, đã được xóa sổ không thương tiếc, các quản đốc bị đưa ra tòa xử tù.
Vinashin chỉ trị giá 90,000 tỷ đồng Việt Nam, tương đương 4.7 tỷ đô la Mỹ. Nhưng tổng số nợ đã lên tới 80,000 tỷ đồng, bằng 4.2 tỷ Mỹ kim, mà trước mắt là gần 4,000 tỷ đồng nợ quá hạn không trả được; bằng 91% tổng số nợ quá hạn của cả 7 tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Trước mối nguy khánh kiệt, giữa Tháng Bảy đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải “thanh toán” Vinashin bằng cách xé lẻ, trao một số “công ty con” cho các tập đoàn khác gánh nợ. Gánh “nợ” thật, bởi vì các “chủ nhân mới,” cũng là những tập đoàn của đảng và nhà nước, sẽ phải lo trả nợ cho các đứa con nuôi này – trong khi chính họ cũng nợ đùm đìa. Ðó là một cách đánh bùn sang ao, xí xóa vết tích và trách nhiệm trong sự thất bại, từ trên xuống dưới.
Trong khi đó, đảng Cộng Sản sử dụng guồng máy tuyên truyền của họ trút hết tội lỗi lên đầu một nhóm, tiêu biểu là Phạm Thanh Bình, người đứng đầu cả đảng ủy và ban quản đốc. Tất cả các báo, đài trong nước bị bắt buộc đồng lõa với chiến dịch tuyên truyền trút tội này. Vì họ không được phép điều tra, không thể tìm tòi tin tức nào khác, ngoài những gì mà bộ máy tuyên truyền của đảng tiết lộ. Trong tương lai, Phạm Thanh Bình sẽ đưa đầu chịu tội thay cho đảng, và có thể vài người trong gia đình ông ta. Sau mấy năm tù, sẽ trở về như các đảng viên kinh tài khác.
Sau khi đổ tội cho Phạm Thanh Bình, đảng Cộng Sản hy vọng người dân sẽ quên trách nhiệm của toàn thể Bộ Chính Trị, trung ương đảng và tất cả những người đang ăn trên ngồi chốc trong chính phủ và Quốc Hội! Nhưng làm sao một cá nhân như Phạm Thanh Bình, 57 tuổi, có khả năng đi vay hơn 4 tỷ đô la trong vòng hơn ba năm, từ khi Vinashin được thành lập cho tới năm nay? Phạm Thanh Bình là người của đảng, được đảng chọn, đưa ra cai quản, sử dụng gần 5 tỷ đô la tài sản. Tiền nợ hơn 4 tỷ sẽ do công quỹ cả nước Việt Nam phải trả, làm sao một cá nhân như Phạm Thanh Bình có thể đè cổ 85 triệu người dân bắt gánh lấy thứ của nợ đó?
Cho nên phải công khai vạch rõ trách nhiệm của nhóm lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam về vụ phá sản này. Các nhà quan sát độc lập, như các ông Hà Trí Anh, Nguyễn Quang A trên mạng lưới Bauxite, ông Nguyễn Sỹ Phương ở Ðức hay ông Lê Diễn Ðức ở Ba Lan, đều kết luận rằng đầu mối của cuộc khủng hoảng Vianshin là do phương thức và mô hình quản trị kinh tế của đảng Cộng Sản. Ðảng còn cai trị dân theo đường lối cố hữu của họ, thì đất nước sẽ đi vào khủng hoảng liên tiếp, không khác gì vụ tập đoàn Vinashin.
Lầm lẫn lớn nhất của đảng Cộng Sản là họ vẫn theo “chủ thuyết kinh tế Ðỗ Mười,” lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo. Khẩu hiệu này được ông ta nêu ra trong một bài viết trước Ðại hội 9, cho tới nay vẫn là kim chỉ nam của đảng. Ông ta còn nhấn mạnh tấm gương Liên Xô đã thành công trong quá trình công nghiệp hóa, để chứng tỏ kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng có hiệu quả, còn xài được.
Phan Văn Khải, rồi Nguyễn Tấn Dũng đã thi hành chủ trương đó. Họ không dám theo kiểu Liên Xô thời 1930-40, mà muốn bắt chước Ðại Hàn Dân Quốc trong những thập niên 1960-70. Những tổng công ty, rồi đến các tập đoàn được đảng Cộng Sản lập ra, cho giống những “chaebol” kiểu Hyundai, Samsung, Deawoo, LG, Posco ở Hàn Quốc. Ngay sau vụ Vinashin, có nhà trí thức trong nước đã đặt câu hỏi: “Tại sao Hàn Quốc lại thành công lớn như vậy trong việc ‘sinh thành dưỡng dục’ những tập đoàn kinh tế của họ, còn chúng ta lại không thành công?”
Có phải vì quan chức Việt Nam ai cũng ngu dốt, tham lam, gian trá hơn người Cao Ly hay không? Chắc không hoàn toàn như vậy, tuy có đúng một phần. Tổng Thống Phác Chánh Hi (Park Chung-hee) nắm quyền từ năm 1961 là một người trong sạch, sống khắc khổ, tận tụy hy sinh, suốt đời chỉ với mục đích xây dựng đất nước ngăn chặn làn sóng Cộng Sản. Với người lãnh đạo như vậy, những người được ông mời cộng tác cũng hết lòng vì công việc phát triển đất nước. Sau khi ông bị ám sát năm 1979, đến nay người dân Hàn Quốc dần dần mới bày tỏ lòng biết ơn đối với cá nhân ông, mặc dù vẫn trách ông quá độc tài.
Khi ông Park Chung-hee mời ông Chung Ju-yung phát triển công ty Hyundai thành một công ty đóng tàu thủy vào năm 1962, ông Chung Ju-yung phải chinh phục các ngân hàng quốc tế về khả năng đóng tàu của người Cao Ly để vay tiền; phải đi tuyển dụng người có khả năng; phải lo nhập cảng các kỹ thuật mà nước ông chưa biết; rồi tìm cách “bán hàng.” Một số ngân hàng Anh Quốc đã cho vay; năm nước Âu Châu chịu cung cấp máy móc thiết bị, và một công ty hàng hải Hy Lạp đặt mua 3 chiếc tàu thủy đầu tiên, vì giá hạ so với tàu Nhật Bản. Sau ba năm, Hyundai đã làm song chiếc tàu thủy đầu tiên, chứng tỏ được khả năng kỹ thuật không thua Nhật Bản. Ðể đào tạo nhân lực, chính phủ Nam Hàn khuyến khích sinh viên học ngành này, mỗi năm có 600 sinh viên vào học kỹ thuật hàng hải và đóng tàu. Tiếp theo đó, Phác Chánh Hy mời một doanh nhân khác, Park Tae-joon thành lập một công ty luyện thép, năm 1968 công ty POSCO ra đời. Park Tae-joon và 39 người cộng sự thề không để phí phạm một đồng nào của dân Hàn Quốc. Họ sống trong những căn nhà lụp xụp trên bãi cát như tất cả các công nhân khác; đêm ngủ cuốn trong chăn, bát cơm ăn cũng đầy những cát vì không mua thứ gạo đắt tiền. Năm năm sau, POSCO sản xuất hơn một triệu tấn thép một năm. Năm 2006, số thương vụ lên tới trên 10 tỷ đô la Mỹ, với 124,000 nhân viên.
Người Hàn Quốc quả nhiên là giỏi thật. Nhưng cũng không thể coi mọi người Việt Nam là thua kém. Nếu các tổng công ty và tập đoàn của nước ta thất bại, phần lớn là vì họ không được cơ hội làm đúng sức, phải nằm trong một cơ chế phản thị trường, quen dùng chính trị lấn áp kinh tế. Và nhất là họ không thấy những tấm gương hy sinh vì quyền lợi dân tộc như Park Chung-hee, Park Tae-joon. Ngay trong các tổng công ty, các tập đoàn đang hoạt động hiện nay, chắc cũng có những người có tài, biết công việc, có những người muốn tận tụy vì công ích. Cái hỏng là do cơ chế Cộng Sản. Nằm trong cơ chế đó, người tốt, người giỏi cũng không làm gì được.
Lý do đầu tiên ai cũng thấy là các chaebol của Nam Hàn làm ăn dựa trên căn bản tư nhân, trong khi các tổng công ty, các tập đoàn ở Việt Nam thuộc quyền đảng Cộng Sản, làm ăn theo chủ thuyết Ðỗ Mười, các quyết định được đánh giá theo tiêu chuẩn chính trị, phe phái, chứ không phải là lợi nhuận. Mỗi phe nhóm lên nắm quyền trong đảng Cộng Sản sẽ đưa các người của phe mình vào điều khiển các doanh nghiệp của nhà nước. Những người này không biết bao giờ phe mình sẽ bị xuống, tự nhiên, họ phải kiếm chác gấp. Thì bày ra càng nhiều dự án càng tốt và càng thu lợi cho cá nhân nhiều hơn. Ông Phạm Thanh Bình giữ ba chức, bí thư đảng ủy, chủ tịch và tổng giám đốc; rồi bổ nhiệm con trai và em ruột làm nhiều chức vụ quan trọng. Trong ba năm, tập đoàn Vinashin đẻ ra đến 200 công ty và tổng công ty tùy thuộc. Mỗi một công ty con đó là một cơ hội để gia tăng quyền hành và kiếm thêm tiền cho chính mình.
Sau khi đưa các quan chức quản lý bất tài ra nắm các tập đoàn và công ty, nhóm lãnh đạo đảng lại thúc đẩy đám đàn em này “phát triển nhanh, phát triển mạnh,” bất chấp ý kiến ngược lại của các chuyên gia kinh tế. Trước khi bỏ vốn đầu tư, ai cũng phải nghiên cứu đủ mọi mặt. Vinashin đã bỏ gần trăm triệu Mỹ kim để mua một chiếc tàu về, sơn lại coi như của mình, chạy được một năm thì bị bỏ nằm trong bến vì đáy tàu bị nứt từ trước khi mua mà không biết! Họ chưa đóng được chiếc tàu nào của mình thì đã đẻ ra 200 công ty con, tổ chức khách sạn, mua bán chứng khoán, để làm gì?
Các công ty lớn, chaebol ở Nam Hàn đến năm 1998, khi gặp cơn khủng hoảng kinh tế, đã chứng tỏ là cơ cấu làm ăn của họ không thực sự ích lợi; từ đó họ đều phải giải tư bớt nhiều công ty con, chú trọng đến công việc kinh doanh chính. Nhưng đảng Cộng Sản Việt Nam không biết rút lấy bài học đó, vẫn cho các tập đoàn phát triển ra bốn phía, mười phương, không cần nghiên cứu, suy xét gì cả. Cho nên công ty dầu khí PetroVietnam đã chuyển sang làm cả ngành ngân hàng và du lịch, công ty Ðiện Lực Việt Nam thì đầu tư vào bưu chính viễn thông, vân vân. Vinashin đã bước vào mấy chục lĩnh vực đầu tư từ xuất nhập cảng, khu nghỉ mát, mua bán chứng khoán, đến sản xuất bia. Ðọc bản danh sách 200 công ty con của Vinashin người ta có cảm tưởng chỉ những người điên mới trong ba năm trời mà đi lập bấy nhiêu công ty mới ra, để chơi vui!
Vinashin không phải là tập đoàn duy nhất được điều khiển bấp chấp quy luật kinh tế. Ðảng Cộng Sản đã lập những tập đoàn kinh tế trong những ngành Than – Khoáng sản, Ðiện lực, Cao su, Dầu khí, Xăng dầu, Ðường sắt, Hàng hải, Hàng không, Xi măng, Mía đường, Thép. Tài nguyên đất nước, do tổ tiên để lại hoặc do các nông dân, người lao động chân tay và trí óc tạo ra, có khoảng 60-70% nguồn lực của nước ta hiện nằm trong tay các doanh nghiệp nhà nước, mà nhóm lãnh đạo đảng Cộng Sản dùng làm chỗ dung túng các cán bộ trong phe cánh của họ. Những nguồn vốn của nhà nước được cung cấp cho những tập đoàn này, hoặc do các ngân hàng nhà nước cho họ vay với điều kiện ưu đãi thuận lợi nhất. Doanh nghiệp tư nhân đóng nhiều nhất vào việc phát triển sản xuất cũng như trong việc sử dụng người để giảm bớt nạn thất nghiệp, nhưng đã bị đẩy ra ngoài vòng để các xí nghiệp của đảng được ưu tiên sử dụng tài nguyên. Ðó là căn bản chính sách kinh tế của đảng Cộng Sản. Những tập đoàn và tổng công ty đóng vai độc quyền trong nhiều lãnh vực, khiến tư nhân muốn bước vào cũng không thể chen chân được. Mà ai cũng biết tư nhân làm kinh doanh có hiệu quả gấp trăm lần nhà nước. Ngay trong lãnh vực sản xuất điện, tập đoàn EVN của nhà nước chỉ chiếm dưới 70% số điện sản xuất nhưng vẫn chiếm độc quyền mua điện của các công ty nhỏ khác, và độc quyền phân phối điện cho người tiêu thụ. Khi một công ty chiếm độc quyền, hiệu quả đã thấp vì thiếu cạnh tranh, công ty đó lại là cha chung không ai khóc nữa, thì làm sao khá được?
Mặt khác, khi tài nguyên quốc gia được đem dùng vào những doanh vụ không có lợi và còn bị ăn cắp, lãng phí, thì tất nhiên nhiều hoạt động khác của quốc gia sẽ thiếu tiền. Có nhà kinh tế đã phân tích thấy số nợ 80,000 tỷ đồng Việt Nam của Vinashin lớn gấp bốn lần tổng số vốn dùng để kích thích kinh tế trong đợt suy thoái năm qua. Con số đó cũng lớn gấp 2 tới 3 lần tổng số vốn đầu tư cho chương trình xóa đói giảm nghèo trong cả nước.
Vụ Vinashin cho thấy chủ trương và chính sách kinh tế của cả đảng Cộng Sản là sai lầm từ lý thuyết đến thực hành. Họ vẫn còn bám lấy “chủ thuyết Ðỗ Mười,” bảo vệ khu vực quốc doanh chỉ vì cần dùng tài nguyên quốc gia nuôi các lãnh tụ lớn, nhỏ. Suốt 20 năm qua, đảng Cộng Sản Việt Nam không chịu đổi mới toàn diện như các nước Cộng Sản cũ Tiệp, Hung, Ba Lan, cho nên đã làm phí thời gian 20 năm của cả dân tộc đang cần chạy nhanh theo chân các nước lân bang. Ðảng Cộng Sản không thể tiếp tục đem cả tương lai dân tộc làm thí nghiệm trong 20, 30 năm năm nữa!
Năm 2001, sau vụ Eron, Quốc Hội Mỹ đã mở nhiều cuộc điều tra; các nhà kinh tế, báo chí cả nước Mỹ đua nhau tìm các thông tin, tìm hiểu và giải thích lý do; bao nhiêu bộ óc cùng suy nghĩ xem trong hệ thống luật lệ về kế toán, về kiểm tra, điều lệ các công ty có gì trục trặc hay không mà để đến nỗi có những hành vi gian trá lọt con mắt kiểm tra lâu như vậy. Sau đó, Quốc Hội đã làm ra những đạo luật mới để phòng ngừa cho tương lai. Nhưng ở Việt Nam thì khác. Các báo, các đài không ai được phép đi tìm tin tức hay thảo luận trên trang giấy về vụ Vinashin. Các chuyên gia có được nhà báo ngoại quốc hỏi cũng chỉ nêu lên những khuyết điểm trong lề lối quản trị chứ không ai dám nói thẳng chính đảng Cộng Sản là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng Vinashin.
Việc che giấu, ém nhẹm tin tức và cấm đoán thảo luận về vụ Vinashin này cũng không khác gì chuyện ông Tô Huy Rứa ra lệnh các báo đài không được điều tra, loan tin về vụ tập đoàn cán bộ lãnh đạo tỉnh Hà Giang dụ dỗ, ép các nữ sinh vị thành niên phục vụ tình dục các quan chức. Tô Huy Rứa coi hành động dâm ô của mấy cán bộ đảng cũng lớn lao quan trọng không kém những bí mật quốc gia! Báo Le Monde bên Pháp nhận xét ông Rứa có rất nhiều triển vọng sang năm sẽ lên thay Nông Ðức Mạnh làm tổng bí thư đảng Cộng Sản. Nếu chuyện đó thành sự thật thì, kể từ thế kỷ thứ nhất, từ năm 39 đến giờ, một người họ Tô mới lại cầm vận mệnh dân Việt ta.
Ngô Nhân Dụng