Chuyện xưa ngụ ngôn: “Cứu vật, vật trả ơn. Cứu nhân, nhân báo oán”
Ngày xưa, có một anh chàng không có tài nghề gì cả, chỉ được cái tính hiền lành và thương người. Từ lúc vợ chết, anh ta trở nên túng bấn. Có dạo phải ngửa tay ăn xin, thấy nghề này hèn hạ lại không nuôi nổi tấm thân, anh chàng mới xoay sang đi làm thuê. Nhưng chỉ làm được một ngày anh đã thấy mệt nhọc và bị chủ la mắng nhục nhã, nên lại dự định làm nghề đi câu cá, là nghề anh cho là thong thả tự do hơn. Chiều hôm đó, người ta trả công cho ba mươi đồng kẽm, anh chàng bèn lấy số tiền đó làm vốn, mua lưỡi và dây câu quyết chí làm ăn bằng nghề mới.
Sáng hôm sau, anh ra ngồi ở bờ sông câu cá, mãi đến trưa chả kiếm được một tí gì. Mồi thì cứ mất dần đi, mãi đến chiều mới thấy phao chìm xuống, anh giật lên thì được một con rắn nước.
Lấy làm bực mình, anh chàng gỡ con rắn ra rồi quẳng xuống sông. Lần thứ hai giật lên thì lại chính con rắn nước hồi nãy mắc vào lưỡi. Anh than thở với rắn: “Rắn ơi! Tao nghèo lắm, chỉ được ba mươi đồng kẽm thôi. Mày đừng hại tao hết cả mồi, rồi đây biết lấy gì kiếm ăn”. Anh chàng lại quẳng rắn xuống nước. Lần thứ ba cũng lại con rắn đó mắc lưỡi câu, lần này hắn giận lắm không thả rắn xuống nước nữa mà nắm lấy cổ rắn định mang đi giết.
Qua cửa đền bà thần Khai Khẩu, tự nhiên con rắn nước kêu lên: “Đừng giết tôi. Tôi là con vua Thủy phủ, vì muốn đánh bạn với anh nên mới tự cắn câu nhiều lần như thế. Hãy cho tôi đi theo, tôi sẽ giúp anh vượt qua cảnh nghèo”.
Anh nghe lời, cho rắn theo mình. Từ đó anh ta câu được nhiều cá: thứ ăn, thứ bán, cuộc sống khá dễ chịu. Anh chàng với rắn càng ngày càng tương đắc.
Một hôm rắn cho anh biết chỉ ba ngày nữa sẽ có một trận lụt lớn xưa nay chưa từng có. Anh nghe lời rắn đóng một chiếc bè để phòng tai nạn. Anh lại còn loan báo cho mọi người xung quanh biết. Nhưng chả một ai thèm nghe. Ba ngày sau, quả nhiên gió bão nổi lên đùng đùng, mưa to như trút, nước dâng lên như biển cả. Người, vật, đồ đạc và mùa màng, v.v… đều trôi băng băng mất tích.
Mãi đến ngày cơn bão tạnh, anh mới dám chống bè tìm về chốn cũ. Thấy một cái tổ kiến đang lênh đênh trên dòng nước, con rắn bảo anh anh ta:
– Anh hãy cứu chúng nó một chút. Anh trả lời:
– Vớt làm gì bầy kiến nhỏ mọn ấy để nó bò khắp bè. Nhưng rắn khẩn khoản:
– Không, anh hãy nghe lời tôi đi. Rồi chúng nó sẽ trả ơn anh. Nghe lời rắn, anh chàng vớt cái tổ kiến lên bè của mình.
Đi được một đoạn, lại gặp một con chuột đang lội bì bõm sắp chết đuối. Rắn lại giục anh vớt lên.
“Anh ta đáp: “Ồ!Con chuột thì cho nó chết chứ cứu nó mà làm gì?”
“Không, anh hãy nghe tôi đi. Rồi nó sẽ trả ơn anh”.
Nghe lời rắn, anh chàng vớt con chuột lên bè của mình.
Đến một chỗ khác họ lại gặp một con trăn đang nằm cuộn tròn trên một ngọn cây giữa dòng nước đợi chết. Rắn cũng giục anh giúp trăn thoát nạn:
– Anh ta đáp “ồ! con trăn kinh lắm, cứu nó mà làm gì?
– “Không. Anh hãy nghe tôi đi. Rồi nó sẽ trả ơn anh”.
Nghe lời rắn, anh chàng lại giúp cho con trăn lên bè.
Sau cùng họ gặp một người đàn ông đang bám vào một cây gỗ nổi bập bềnh giữa dòng nước đang hấp hối. Anh không đợi rắn bảo, định vớt lên bè, nhưng con rắn cản lại:
– Anh đừng vớt nó lên làm gì. Nó sẽ làm hại anh đấy.
– Anh đáp: “Người ta thường nói cứu một người dương gian bằng một ngàn âm phủ. Sao lại chỉ cứu vật mà không cứu người kia chứ”.
Nói đoạn, mặc kệ lời rắn can ngăn, anh nhất định thực hiện ý định của mình, vớt người sắp chết đuối đó lên bè, đưa về nhà cho sưởi lửa ấm và cho ăn uống tử tế. Sau mấy ngày nước rút đi hết, anh thả tất cả những con vật lên bờ. Còn người nọ vì gia đình phiêu bạt, nhà cửa trôi mất cả nên anh cho ở lại với mình làm bạn, cùng câu cá nuôi nhau và xem như em ruột.
* * *
Đến lúc con rắn nước trở về thủy phủ thì nó mời anh cùng đi theo xuống giang sơn của cha mình. Dọc đường, rắn bảo anh ta:
– “Nếu cha tôi có cho gì thì anh nhớ đừng nhận, mà chỉ xin lấy cây đàn Thất Huyền. Đàn ấy nếu có giặc, gãy một bài là có thể làm cho giặc phải tan”.
Vua Thủy thấy có bạn của con tới chơi lấy làm mừng rỡ, đãi anh chàng rất hậu. Khi vua Thủy sai quân hầu mang vàng bạc châu báu đến biếu, anh nhớ lời rắn cố khước từ, chỉ xin có mỗi một cái đàn Thất Huyền.
Vua Thủy phủ nể chàng, thuận cho ngay. Anh trở về cõi đất, quý cái đàn vô hạn. Một hôm anh có việc phải đi xa. Trước khi đi, anh giấu chiếc đàn thần dưới hũ thóc, dặn người bạn anh đã cứu chớ có bén mảng đến chỗ hũ thóc đó. Nhưng người kia nghe dặn, nghĩ rằng dưới hũ thóc có vật quý bèn cố tâm kiếm tìm, quả bắt được cây đàn Thất Huyền. Hắn đã biết sự mầu nhiệm của chiếc đàn ấy bèn lấy trộm rồi trốn đến kinh đô để lập công danh.
Hồi ấy quân đội nhà vua phải đối địch với một nước láng giềng luôn luôn kéo quân sang xâm lấn bờ cõi, hắn vào xin vua đi tiễu trừ giặc. Nhờ có chiếc đàn thần Thất Huyền, hắn đã làm cho quân đội của đối phương thua liểng xiểng. Lúc thắng trận trở về, hắn được nhà vua hết lời khen ngợi, phong làm đại tướng, ban lộc rất hậu. Được giàu sang, hắn không còn nghĩ gì đến ân nhân của mình nữa. Nhà vua toan gả công chúa cho đại tướng nhưng vừa hứa hôn thì bỗng dưng công chúa bị câm. Vì thế hôn lễ đành phải hoãn lại chờ lúc công chúa lành bệnh mới cử hành.
* * *
Lại nói chuyện anh chàng câu cá khi trở về thấy mất bạn lại mất cả cây đàn Thất Huyền thì vội bỏ nhà đi tìm. Vào đến kinh đô, một hôm anh gặp người kia bây giờ đang ngồi trên kiệu sơn son thiếp vàng, có quân lính theo hầu đông nghịt. Anh đón kiệu lại, cất tiếng hỏi thăm bạn cũ. Nhưng người kia vừa gặp ân nhân của mình đã vội thét lên ra lệnh lính hầu bắt trói lại. Thế rồi, để khỏi lộ chuyện, hắn vu cho anh làm giặc, sai nhốt một chỗ kín đáo, không cho ai tiếp xúc, không cho ăn, để chờ ngày đưa ra pháp trường xử chém. Trong ngục tối, giữa khi anh chàng đang than thân trách phận thì bầy kiến ngày xưa đã tìm được cách lọt vào hỏi thăm:
– “Tại sao ông bị giam ở đây?”.
Anh chàng ngơ ngác không hiểu tiếng ai hỏi mình, bèn hỏi lại:
– “Ai đó? Tại sao tôi chỉ nghe tiếng mà không thấy người?”
– “Chúng tôi là bầy kiến mà ông cứu khỏi nạn lụt trước đây, hiện đang ở dưới chân ông đây!”.
– Anh chàng cúi xuống tìm kiến rồi kể chuyện cho kiến nghe nông nỗi của mình.
– Kiến nói: – “Chúng tôi không thể làm được gì nhưng để chúng tôi đi kiếm con chuột ngày ấy, may chuột có kế gì chăng”.
Lũ kiến bèn chia nhau mỗi con một phương đi kiếm chuột và báo tin không may của ân nhân cho chuột biết. Chuột bảo:
– “Bây giờ chắc ông ấy đói lắm, để tôi mang vào ngục một ít thức ăn đã. Rồi tôi sẽ đi kiếm con trăn xem thử nó có mưu mẹo gì chăng”.
Chuột liền đưa khoai và bánh lấy trộm được của một nhà hàng vào ngục cho anh chàng ăn. Anh tỏ lời cám ơn. Rồi cả gia đình nhà chuột lại kéo nhau đi tìm trăn. Lúc sắp đến nhà trăn, cả bầy chuột sợ trăn ăn thịt bèn trèo lên cây cao gọi xuống:
– “Bác trăn ơi! Bác trăn ơi!”.
Khi trăn ra, một con chuột già đánh bạo xuống kể chuyện cho trăn biết. Trăn nhả ra một viên ngọc bảo chuột đưa về cho ân nhân mà nói rằng:
– “Viên ngọc này mài ra thành bột có thể chữa lành câm. Ân nhân của chúng ta có thể đem chữa bệnh cho công chúa, rồi nhờ đó mà thoát nạn”.
Khi được ngọc, anh chàng gọi người cai ngục đến, nói mình có phép cứu công chúa khỏi câm. Người ta dẫn anh đến gặp vua. Quả nhiên sau khi công chúa uống nước ngọc mài thì bỗng nói được, và câu đầu tiên của công chúa là đòi lấy người cứu mình làm chồng.
Vua rất mừng rỡ và khen ngợi, hỏi anh ta vì sao có thứ thuốc thần diệu đến thế. Anh chàng kể lại đầu đuôi câu chuyện, từ lúc câu được rắn, cứu được các con vật và người trong nạn lụt, cho đến lúc bị người phản bội, còn các con vật lại tìm cách trả ơn, trong đó có con trăn cho mình viên ngọc quý.
Vua nghe xong tắc lưỡi:
– “Thật là bụng dạ con người sâu hiểm hơn cả những con vật nguy hiểm!”.
Lập tức vua sai lính bắt giam tên đại tướng bất nghĩa kia để chờ ngày phán xử. Còn anh chàng đi câu được vua cho làm quan và gả công chúa. Anh trở thành phò mã và sống một cuộc đời sung sướng.
Chuyện sưu tầm