Chuyên gia Mỹ-Úc vạch trần âm mưu: “tàu đánh cá” Trung Cộng gây rối ở Biển Đông
Theo hồ sơ của Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế (Center for Strategic and International Studies – CSIS), toàn bộ hoạt động của tàu đánh cá do nhà nước Trung cộng tài trợ từ việc đóng tàu, cung cấp nhiên liệu, đến lương tháng và của thuyền trưởng và thuyền viên.
Vén tấm màn Dân Quân Biển của Trung Cộng trên Biển Đông
Ông Gregory Poling, giám đốc Sáng kiến Minh Bạch Hàng Hải châu Á (AMTI), Trung tâm Nghiên cứu Chiến Lược và Quốc tế (CSIS) của Mỹ cho biết, dân quân biển của Trung Cộng là lực lượng bán vũ trang, thường xuyên hiện diện ở khu vực Biển Đông. Theo hình ảnh vệ tinh thì các tàu này quấy rối và tấn công hoạt động đánh cá hợp pháp của các quốc gia khác trong khu vực Biển Đông.
Các tàu này thường xuyên đi kèm các đội tàu khai thác thủy sản của Trung Cộng, chủ yếu tập trung đi từ các hải cảng gần đảo Hải Nam và hoạt động trải rộng nhiều khu vực trên Biển Đông mà Trung Cộng ngang nhiên tuyên bố chủ quyền của họ.
Theo hồ sơ của CSIS, toàn bộ hoạt động này do nhà nước Trung Cộng tài trợ từ trợ cấp từ việc đóng tàu, cung cấp nhiên liệu, trả lương, bổ nhiệm thuyền tưởng thuyền viên…
Thậm chí như vừa rồi khi tàu tuần duyên Philippines tiếp cận các tàu đánh cá Trung Cộng để giải quyết vấn đề vi phạm trên Biển thuộc chủ quyền Philippines, những tàu đánh cá của Trung Cộng tụ tập lại với nhau để chống lại. Họ không tìm cách trốn tránh mà còn ngang nhiên chống trả lại lực lượng hành pháp của nước khác. Rõ ràng họ không có vẻ gì là tàu cá, ông Greg Poling nói.
Nhóm tàu lớn thứ 2 nữa tàu khảo sát địa chất của Trung Cộng. Hiện nay chưa có số liệu chính xác nhưng có khoảng ít nhất 300 tàu hoạt động, ông Poling cho biết.
Với số lượng lớn các tàu thế này, các hành vi ứng xử cũng gây ra rất nhiều lo ngại, chuyên gia của CSIS nói thêm
Theo ông Nguyễn Thế Phương, thành viên dự án Đại Sự Ký Biển Đông, tháng 9 vừa rồi, Trung Cộng đã tiến hành nghiên cứu gần như toàn bộ ở phía Tây Nam Biển Đông, trong cả vùng EEZ của Việt Nam, Malaysia và Brunei, đôi khi cả Indonesia.
Từ lộ trình tàu này cho thấy, ngoài mục tiêu nghiên cứu khoa học còn nhằm thực thi quyền chủ quyền ở khu vực mà Trung Cộng đơn phương tuyên bố chủ quyền.
Ông Phương cũng cho biết thêm, sự tăng cường khảo sát nghiên cứu của các tàu của Trung Cộng nhằm mục tiêu kép vừa khảo sát khoa học nhưng cũng đồng thời đặt hệ thống mạng lưới đường cáp cảm biến dưới nước, nối với các hệ thống mạng lưới giám sát không gian và tình báo trên không và trên biển.
Đây là hệ thống tác chiến dưới nước có khả năng phối hợp với tàu ngầm ở khu vực này mà chắc chắn sẽ được Trung Cộng đẩy mạnh trong tương lai, gây trở ngại cho các quốc gia có liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông, ông Phương dự báo.
Trao đổi với phóng viên, GS Carl Thayer, Trường Đại học New South Wales nhấn mạnh, sự ổn định ở Biển Đông sẽ phụ thuộc vào việc các quốc gia liên quan hành xử tốt các tranh chấp và duy trì sự cân bằng quyền lực. Giải pháp này không giải quyết được tranh chấp nhưng nhằm làm giảm khả năng sử dụng vũ lực.
Tuy nhiên, khó khăn ở đây là Trung Cộng sử dụng “chiến thuật vùng xám”, sử dụng các tàu có vũ trang dưới vỏ bọc của các đội tàu cá. Việc sử dụng tàu quân sự và máy bay có nguy cơ leo thang xung đột, dẫn đến việc sử dụng vũ lực, ông Thayer cảnh báo.
NGÀY CÀNG NHIỀU NƯỚC LO NGẠI
Murray Hiebert, chuyên gia về Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế cho rằng, việc các nước ngoài khu vực như Anh, Đức… có hoạt động ở Biển Đông cho thấy nhiều quốc gia đang quan tâm và lo ngại về việc Trung Cộng ngày càng hung hăng trên Biển Đông.
Cùng quan điểm, GS Carl Thayer, cho rằng, việc điều động các tàu hải quân các nước châu Âu đến Biển Đông trong năm nay nhấn mạnh tầm quan trọng của ba yếu tố: duy trì an toàn và bảo đảm các tuyến đường liên lạc quan trọng trên biển mà nền kinh tế toàn cầu phụ thuộc; khẳng định các quyền tự do đi lại truyền thống và phản đối việc Trung Cộng sử dụng sức ép để thiết lập bá quyền Đông Nam Á.
Và đáp trả lại, tàu Trung Cộng đã hoạt động rất nhiều ở ngoài khơi Malaysia, Indonesia và Philippines. Nước này đang muốn nhắc nhở các láng giềng Đông Nam Á rằng, cá và tài nguyên dưới Biển Đông thuộc về họ. Không nhẽ Trung Cộng là cường quốc mới lên mà Mỹ chẳng thể bảo vệ được các nước Đông Nam Á? chuyên gia của CSIS trao đổi với phóng viên.
Các hoạt động quấy rối các nước láng giềng như Việt Nam, Philippines, Malaysia và Indonesia của Trung Cộng, cùng với tốc độ đàm phán hiện nay, rất khó có khả năng Bộ Quy Tắc Ứng Xử ở Biển Đông gọi là (Code of Conduct – CoC) sẽ được hoàn thành vào năm tới, Tiến Sĩ Thayer dự báo.
Ông Thayer cũng cho biết, Văn bản đàm phán Dự Thảo CoC duy nhất dài 19 trang khổ A4. Cho đến nay đã có một thỏa thuận tạm thời về Lời Mở Đầu, là một trang 9 dòng. Các nhà đàm phán hiện đang thảo luận về phần tiếp theo phác thảo các Mục tiêu của CoC. Các phần gây tranh cãi nhất của là Các Cam Kết Cơ Bản (16 trang) – vẫn chưa được bàn thảo.
GS người Úc lưu ý, các thành viên vẫn chưa cùng nghĩ đến lợi ích của ASEAN. Các tuyên bố về Biển Đông luôn lưu ý rằng “một số thành viên” bày tỏ lo ngại chứ không phải ASEAN nói chung bày tỏ sự lo ngại.
ASEAN phải tự mình tìm cách cân bằng quan hệ với quốc Trung Cộng trong tình trạng ngày càng có nhiều nước can dự vào khu vực, ông Murray Hiebert nói.
Trong khi có một số quốc gia hướng nước về Trung Cộng, thì một số quốc gia hướng về Mỹ. Nhưng rất ít quốc gia “bỏ hết trứng vào một giỏ”. ASEAN muốn hợp tác kinh tế với Trung Cộng và hợp tác an ninh với Mỹ. Nhiều nước ASEAN quan tâm đến các kế hoạch phát triển kinh tế của Mỹ cho khu vực, điều có thể cân bằng vai trò thống trị của Trung Cộng, đặc biệt là trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, kỹ thuật số, 5G và AI…, ông Murray Hiebert nhận định.
Tham khảo CSIS về Trung Cộng và Du Kích Biển