Chính Trị và Thua Cuộc
Bài nhận định Chính Trị và Thua Cuộc này rất đáng suy gẫm cho người Việt từ bỏ chế độ độc tài Cộng sản đi tìm tự do và đang đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ tại quê nhà. Bài của ông Nguyễn Bách viết từ Motreal, Canada, xin quý bạn trẻ, qúy độc giả thưởng thức và tự vấn.
Chính Trị và Thua Cuộc
Nguyễn Bách
Truyện xưa kể rằng Đỗ Sinh, người xứ Tấn, là người tài hoa, văn võ tinh thông, nhưng suốt đời chỉ vui thú yên hà, làm bạn cùng mây nước. Là con nhà đại phú, Sinh rất vui với cuộc sống hiện tại nhàn tản, không phải bận tâm tới cuộc sống vật chất hàng ngày. Vua nước Tấn, An Lạc Vương, là người bạo ngược, không màng gì đến việc trị nước. Loạn lạc xẩy ra khắp nơi; dân tình đau khổ, ta thán. Giặc dã, loạn lạc nổi lên ngay tại quê hương của Sinh nhưng Sinh không bận tâm, coi việc trị nước an dân là việc của người khác. Sinh tuyên bố KHÔNG LÀM CHÁNH TRỊ mỗi khi bị người thân thúc dục từ bỏ thái độ rửa tay gói kiếm, từ bỏ cuộc sống nhàn hạ để làm một cái gì cho quê hương đất nước. Giặc dã tràn đến quê hương của Sinh. Sinh mất tất cả tài sản, đất đai, ruộng vườn, trở nên trắng tay. Khi Sinh biết hối hận về thái độ trùm chăn, không làm chánh trị của mình thì đã quá trễ, nước đã mất nhà đã tan; thân phận của Sinh là thân phận một kẻ lưu đầy, nhưng bị lưu đầy trên quê hương của chính mình.
Tại Việt Nam , trong suốt cuộc chiến chống Cộng bảo vệ quê hương, rất nhiều người đã trùm chăn, hành xử như Đỗ Sinh. Cho đến bây giờ tại Hải ngoại, chúng ta lại vẫn được nghe đi nghe lại điệp khúc cũ KHÔNG LÀM CHÁNH TRỊ. Ta tự hỏi Chánh trị là gì?
Theo Tự điển Larousse, Chánh trị (politique) là việc điều hành đất nước, xác định các thể chế sanh hoạt (direction de l’État et determination des formes de son activité).
Theo Tự điển Canadian Dictionary ( Oxford ): Chánh trị (politics) là nghệ thuật, phương pháp cai trị trong một nước(the Art and Science of government).
Theo Việt Nam Tự điển của Nguyễn Văn Khôn, Chánh trị là việc thi hành quyền trị nước. Nghĩa rộng là lừa đảo khôn khéo như làm việc phải có chánh trị. Thiếu chánh trị khi làm việc có nghĩa là thực thà .
Thực ra hai chữ chánh trị có nghĩa rất rộng: việc đối xử, giao thiệp với nhau trong một gia đình, trong một đoàn thể, trong xã hội đều là việc chánh trị. Không làm chánh trị tức là làm chánh trị đó, làm cái KHÔNG LÀM. Việc bỏ nước ra đi làm thuyền nhân, không chịu sống với Cộng Sản là một hành vi có tính cách chánh trị. Theo những người tị nạn Cộng Sản thì đó là một hình thức bỏ phiếu bằng hai chân phủ nhận chế độ Cộng Sản. Trong ngôn ngữ thường dùng của đại chúng, hai chữ chánh trị được hiểu theo một nghĩa hạn hẹp là các tư tưởng, hành động có liên quan đến đảng phái, chánh quyền. Ta nên xác định rõ một vài từ ngữ có liên quan đến hai chữ chánh trị:
Làm chánh trị tức là trực tiếp tham dự vào các công việc có liên quan đến đảng phái, liên quan đến chánh quyền.
Lập trường chánh trị hay thái độ chánh trị là một hình thức xác định lập trường một cách tiêu cực trong một tổ chức, một tập thể.
Bất hợp tác, nhưng không tích cực chống đối, là một thái độ chánh trị. Lập trường của các người Việt quốc gia là không chấp nhận chế độ phản dân chủ Cộng Sản trên quê hương Việt Nam .
Trước ngày 30-4-1975, trong cuộc chiến đấu chống lại quân xâm lăng Cộng Sản Bắc Việt, mấy chữ KHÔNG LÀM CHÁNH TRỊ – được hiểu là đồng nghĩa với KHÔNG CHỐNG CỘNG – đã được Cộng Sản lợi dụng triệt để, làm lũng đoạn hậu phương của Miền Nam. Chắc hẳn bạn đọc còn nhớ:
– Nguyên Chủ tịch của Tổng Hội sinh viên Sàigòn Huỳnh Tấn Mẫm, Chủ tịch học sinh Sàigòn Lê Văn Nuôi, Dương Văn Đầy luôn luôn hô hào sinhviên, học sinh không làm chánh trị . Những sinh viên biểu lộ ý muốn chống Cộng đều bị đe dọa hay loại trừ. Điển hình là việc ám sát bắn chết đại diện sinh viên Luật Khoa Lê Khắc Sinh Nhật hay việc bắn bị thương sinh viên Ngô Vương Toại. Toại đã may mắn được các Bác sĩ của Bệnh viện Bình Dân, Sàigòn giải phẫu kịp thời cứu sống. Sau ngày 30-4-1975, Mẫm, Nuôi, Đầy đã hiện rõ là các cán bộ Cộng Sản của Thành ủy Sàigòn.
– Ni sư Huỳnh Liên là người đã luôn luôn to tiếng khích động và cầm đầu các đoàn biểu tình xuống đường chống đối Chánh phủ của Miền Nam , hô hào đưa chánh trị ra khỏi tôn giáo . Sau khi Cộng Sản hoàn toàn chiếm được miền Nam , Ni sư Huỳnh Liên đã hiện nguyên hình là một cán bộ tôn giáo vận của Cộng Sản.
– Các phong trào đòi hỏi đưa chánh trị ra khỏi học đường, các cuộc biểu tình trong ngày ký giả đi ăn mày, đòi hỏi tự do báo chí phi chánh trị … đã tạo ra nhiều bất ổn cho xã hội miền Nam .
– Tại miền Trung, nhứt là tại Huế, nhóm người trẻ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha(em rể của Trịnh Công Sơn) Trần Xuân Kiêm… luôn luôn hô hào đưa chánh trị ra khỏi các sanh hoạt học đường, ra khỏi tôn giáo. Trong cuộc thảm sát hồi Tết Mậu thân tại Huế, họ đã hiện hình là các cán bộ Cộng Sản rất khát máu. Họ chính là thủ phạm trong các vụ thảm sát tại đây. Mọi người đều không lạ gì về gốc tích và hành tung của anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Còn sinh viên Nguyễn Đắc Xuân thì không được nổi bằng anh em Tường, Phan, nhưng y đã nổi tiếng sau Tết Mậu Thân. Chính y là người đã tự tay xử tử bạn cũ là Trần Mậu Tý khi CS chiếm đóng Huế chỉ vì Tý là đảng viên Đảng Đại Việt (chuyện này đã được kể rõ trong tác phẩm GIẢI KHĂN SÔ CHO HUẾ của nhà văn Nhã Ca). “ Thi sĩ ” Hoàng Phủ Ngọc Tường ngày nay ung dung ngồi xe lăn. Trần Xuân Kiêm là Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Huế vào thời điểm đó. Kiêm học Trung học tại Sàigòn (trường Trung học Pétrus-Ký). Kiêm đậu Tú Tài năm 1962, sau đó y về Huế học tại Đại Học Văn Khoa, Huế. Trong Phong trào Hướng đạo, Kiêm là Tráng sinh trong Tráng đoàn Lam Sơn thuộc Đạo Đông thành của Đỗ Ngọc Yến (nguyên Chủ báo Người Việt , California , USA ).
Kiêm không lộ mặt như Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường… nhưng Kiêm đích thực là người giữ vai trò chánh, ẩn mình trong bóng tối, đứng đằng sau các vụ ruồng bố, thảm sát hàng ngàn đồng bào vô can trong vụ Tết Mậu Thân tại Huế. Những người dân Huế này có ai “làm chính trị” đâu?
– Trước năm 1975, các thành phố lớn như Sàigòn, Huế không bao giờ thiếu vắng các cuộc biểu tình đòi hỏi phi chánh trị, làm hậu phương của miền Nam trở nên luôn luôn bất ổn, gây khó khăn không ít cho các Chánh phủ Việt Nam Cộng hòa.
Trong tham vọng và kế hoạch bành trướng Chủ Nghĩa Cộng Sản theo lệnh Cộng Sản Quốc tế, Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngay sau khi chiếm được miền Bắc nước Việt, đã có kế hoạch xâm chiếm miền Nam. Sau năm 1954, Miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đạt được nhiều tiến bộ đã khiến cho các tên Cộng Sản nằm vùng hoặc bị vô hiệu hóa, hoặc bị lộ diện. Trước viễn tượng tan rã của đám Việt Cộng nằm vùng nên năm 1958, Lê Duẩn được cử vào miền Nam nghiên cứu tình hình, hầu mong cứu vãn tình thế. Bản phúc trình của Lê Duẩn gửi Bộ Chánh Trị ở Hà Nội: Đề cương cách mạng miền Nam khẳng định chỉ có một đường lối duy nhứt để cứu vãn tình thế ngõ hầu Cộng Sản hóa miền Nam là phát động một cuộc chiến tranh giải phóng , một cuộc chiến toàn diện trên mọi lãnh vực: kinh tế, chánh trị, quân sự. Lập tức các đảng viên nằm vùng được lệnh moi vũ khí chôn giấu, lập các mật khu trong rừng núi, bắt đầu gây loạn ở miền Nam, bằng cách khuấy động, khủng bố tàn bạo tại các vùng quê theo đúng sách lược của Cộng Sản Trung Quốc: Lấy rừng núi chế ngự nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị. Gây xáo trộn trên toàn miền Nam về phương diện chánh trị là kế hoạch hàng đầu bên cạnh các áp lực về quân sự.
Tháng 5 năm 1959, Cộng Sản Bắc Việt cho mở lại đường mòn Hồ Chí Minh để bắt đầu chuyển vận võ khí, quân đội và cán bộ Cộng Sản vào thâm nhập miền Nam. Ngày 21-12-1959, cái gọi là Mặt Trận Giải phóng Miền Nam chánh thức ra đời, đánh dấu một khúc quanh quan trọng của những điên loạn giải phóng giếtngười do Cộng sản Việt Nam gây ra cho dân tộc. Nằm đúng trong sách lược của Bắc Việt, hậu phương miền Nam bị chúng làm xáo trộn bằng đủ mọi cách, bằng các cuộc biểu tình, xuống đường đòi đưa chánh trị ra khỏi các sanh hoạt như tôn giáo, học đường… Hầu hết, nếu không nói là tất cả, các phong trào chống đối đều bị Cộng Sản xâm nhập. Mục tiêu chánh trị hàng đầu của Cộng Sản là làm cho miền Nam trở nên bất ổn định, càng bất ổn định chừng nào thì càng tốt cho công cuộc Cộng sản hóa chừng đó.
Trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam, chống lại cuộc xâm lăng của Cộng Sản, người Việt Quốc gia đã thua cuộc, để Cộng Sản thống trị cả nước từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Có nhiều nguyên nhân đưa đến sự thất trận của miền Nam . Các nguyên nhân này đã được nói tới rất nhiều kể từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Một trong những nguyên nhân đưa đến sự xụp đổ của miền Nam, theo chúng tôi, là sự kém hiểu biết về hiểm họa Cộng Sản. không thấy được tầm quan trọng và nhiệm vụ của mỗi người trong việc bảo vệ quê hương. Điều đó đưa đến việc thờ ơ, không tích cực tham gia trong cuộc chiến đấu một mất một còn với Cộng Sản. Có nhiều người đã nhìn cuộc chiến với cặp mắt bàng quang, không mấy quan tâm, dấu mình trong cái vỏ không làm chánh trị như Đỗ Sinh trong truyện xưa. Họ coi cuộc chiến bảo vệ tổ quốc là cuộc chiến của riêng những người lính. Nay phần lớn đã thức tỉnh, nhưng thức tỉnh vào giờ thứ 25 của trận chiến. Than ôi quá muộn màng!!
Cuộc chiến Quốc-Cộng 1954-1975 là cuộc chiến mà người Quốc Gia đã thua từ đầu ngay khi Hiệp định Genève được ký ngày 20-7-1954 còn chưa ráo mực. Ta thua vì nhiều lý do, nhứt là ta không được người bạn đồng minh Hoa Kỳ cho phép thắng. Nhiệm vụ bảo vệ quê hương đè nặng trên vai người lính. Họ chiến đấu nhưng không được phép thắng, chỉ được phép tự vệ khi bị địch tấn công. Trong những ngày cuối của tháng 4-1975, họ đã chiến đấu trong bi thảm, trong đáy cùng của tuyệt vọng, Ta phải cảm ơn họ, các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng hòa, họ đã đơn độc chiến đấu. Mặc dù bị phản bội từ nhiều phía, họ đã giữ vững Miền Nam được 21 năm.
Cuộc di cư vĩ đại bỏ nước ra đi sau ngày miền Nam bị rơi vào tay Cộng Sản là một hành vi chánh trị, một lập trường chánh trị. Đó là khẳng định không chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản.
Trên thực tế, cuộc chiến chống Cộng Sản chưa chấm dứt. Mặt trận chống Cộng đã thay đổi hình thái. Hiện nay cuộc chiến Quốc-Cộng được trải dài trên khắp thế giới.Trong suốt cuộc chiến 1954-1975, người Quốc gia chúng ta bị bắt buộc chỉ ở thế phòng thủ, không được phép tấn công, không được Hoa Kỳ bật đèn xanh cho phép đem chiến tranh ra tận hậu phương của quân xâm lăng, tức là miền Bắc của vĩ tuyến số 17. Bây giờ thế trận đã khác, hiện nay người Việt Quốc Gia đang đối đầu với bọn Cộng Sản -đối đầu trong thế công- tại khắp mọi nơi trên thế giới, tại bất kỳ nơi nào mà bọn hậu duệ của “già Hồ” héo lánh tới. Trong cuộc chiến mới mẻ này, chúng ta hoàn toàn không tùy thuộc vào đồng dollars, chúng ta không bị các chủ nhân ông sai khiến. Chúng ta đã và đang thắng bọn Cộng Sản tại bất cứ nơi nào họ đặt chân tới. Chúng ta đang giữ thế chủ động. Nơi nào có người Việt Quốc gia cư ngụ là nơi đó có ngọn lửa chống Cộng. Tại khắp mọi nơi trên thế giới tự do, ta không thấy một Cộng đồng thân cộng nào cả. Trên thế giới, bất cứ một lãnh tụ nào khi đến thăm viếng một nước tự do cũng được đồng hương của họ long trọng tiếp đón. Trái lại, lãnh đạo của Việt Nam Cộng Sản, khi đến bất kỳ một nước tự do nào khác, như thủ tướng Cộng Sản Phan Văn Khải, chủ tịch Việt cộng Nguyễn minh Triết sang Hoa Kỳ, đều phải trốn chui trốn nhủi, không dám gặp đồng hương.
Cộng Sản đã áp đặt chế độ vô sản lên dân tộc ta bằng bạo lực, bằng phá hoại, bằng giết người một cách man rợ. Nói dối và giết người tàn bạo không gớm tay là sở trường của Cộng Sản. Nay sở trường khốn nạn đó trở nên vô dụng khi họ phải đối đầu với đám Người Việt di tản đang sống tại các nước tự do Ta phải nhìn nhận rằng các cuộc tranh đấu, biểu dương lực lượng, các cuộc vận động dư luận của người Việt Hải ngoại, tuy chưa thành công làm tan vỡ đảng ăn cướp Cộng Sản Việt Nam, đã thành công trên nhiều phương diện, thí dụ:
– CS Bắc Việt đã không dám làm cuộc tắm máu ở Miền Nam như Cộng Sản Cao Miên đã làm ở xứ Chùa Tháp khi chiếm được nước này.
– Cộng Sản Việt Nam đã không dám tự do giết người như họ đã từng làm trong quá khứ.
– Cộng Sản Việt Nam đã không dám đàn áp một cách công khai các thành phần dân chúng không đồng ý với họ.
– Cộng Sản Việt Nam , dưới áp lực của Hoa Kỳ và của thế giới tự do, đã phải thả hết tù cải tạo. Áp lực đó, sở dĩ có được là nhờ các vận động của người Việt Hải ngoại.
– Cũng vì nhờ sự vận động nói rõ sự thực về con người Hồ Chí Minh trước dư luận thế giới của người Việt Hải ngoại khiến têntội đồ của lịch sử dân tộc này không được UNESCO của Liên Hiệp Quốc tôn vinh là danh nhân của thế giới.
– Qua các cuộc vận động, tố cáo của người Việt tị nạn, công luận thế giới đã biết rõ về bản chất lưu manh, tráo trở, gian dối, độc tài chà đạp nhân quyền của những người Cộng Sản Việt Nam. Thí dụ tấm hình Cha Nguyễn Văn Lý bị Công An bịt miệng trong một cái được gọi là phiên toà tại Huế đã được truyền đi khắp thế giới, tố cáo nền Công lý bịt miệng của Cộng Sản Việt Nam .
Tại quê hương Việt Nam, sau 32 năm độc quyền cai trị đất nước, Cộng Sản đã phải thay hình đổi dạng nhiều lần (métamorphose) để sống còn. Nhứt là kể từ khi các chế độ Cộng Sản trên khắp thế giới cáo chung vào đầu thập niên 90.
“Công lý Bịt miệng” của CSVN”
Các người lãnh đạo mới của Cộng Sản Việt Nam tương đối có học thức hơn đám hậu duệ già nua của Hồ Chí Minh nên họ rất tinh ma trong việc độc quyền cai trị đất nước. Họ đã thay đổi hoàn toàn kế hoạch để đối phó và khai thác đám người Việt quốc gia đang sống tại các nước tự do trên khắp thế giới. Nghị quyết 36, hoạch định các kế sách đối với khối Việt kiều di tản, là một trong muôn vàn mưu chước của Cộng Sản nhằm khống chế các Cộng Đồng người Việt Hải ngoại. Nào đổi mới, nào mở cửa, các chương trình du lịch, chấp nhận cho phép có quyền tư hữu, nới lỏng gọng kìm cai trị của chuyên chính vô sản… là những bước lùi chiến lược của Cộng Sản Việt Nam để được tồn tại. Xin cứ về du lịch, tiêu tiền ở Việt Nam nhưng tuyệt đối không được chống đối, đụng đến chế độ. Công An của họ có tai mắt ở khắp mọi nơi. Mọi mầm mống chống đối đều bị lực lượng Công An của họ dập tắt từ trong trứng nước. Mọi ý đồ thay đổi chế độ đều bị đàn áp một cách tàn bạo. Sau cùng tất cả đều trông cậy vào các áp lực đến từ bên ngoài, nhứt là các áp lực đến từ phía các người Việt Hải ngoại.
Người Việt Quốc gia vẫn chưa thành công trong mục tiêu tối hậu: đó là dứt điểm những người Cộng Sản Việt Nam , đem lại dân chủ, tự do cho đồng bào ở quê nhà. Vì đâu nên nỗi? Lý do nào đã giúp bọn phản dân hại nước vẫn nhởn nhơ trên quê hương ta? Sau đây là một vài lý do đã khiến người Việt Quốc gia chưa thắng, và có lẽ sẽ không bao giờ thắng bọn Cộng Sản nếu vẫn chưa thức tỉnh và cảnh giác:
Người Việt tị nạn Cộng Sản vẫn tiếp tục gửi tiền quá m ứccần thiết về Việt Nam vô tình gián ti ếp giúp đỡ Cộng Sản chuyển tài sản tham nhũng, bóc lột ra nước ngoài. Vietcong dùng chính tiền bạc nầy mua chuộc tay sai khống chế cộng đồng. Ngay từ những ngày đầu tị nạn, chúng ta đã gửi tiền quá mức cần thiết đủ sống về giúp đỡ thân nhân còn kẹt tại quê nhà. Có ai lại không xót thương người thân đang gặp khó khăn đâu? CSVN có cả một hệ thống tổ chức qui mô để tóm thâu các số tiền gửi về quê nhà. Các trung tâm gửi tiền về Việt Nam mọc lên như nấm, tại tất cả các nước có người Việt tị nạn sanh sống. Khoảng những năm 80, CS đã đứng trên bờ vực thẳm của tan vỡ vì kinh tế lụn bại do bất tài và quản lý dở. Nhưng họ đã thoát hiểm chính vì tiền của chúng ta gửi về. Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và đồng đảng đã thoát hiểm. Chánh sách đổi mới được phát động từ đó. Người Việt Hải ngoại hết bị gọi là lũ lưu manh phản động, trốn khỏi nước để đi làm đĩ điếm. Chúng ta được CSVN gọi với một cái tên mỹ miều khúc ruột ngàn dặm . Hiện nay, mỗi năm các khúc ruột ngàn dăm gửi về quê độ 5 tỷ dollars USA . Ngoài ra, CSVN có trăm phương ngàn kế để dụ dỗ chúng ta mang tiền về Việt Nam : du lịch, đầu tư, các chương trình được gọi là chương trình từ thiện…..
– Bản tánh dễ quên của người Việt Quốc gia. Một số lớn người Việt tị nạn đã quên cái quá khứ tị nạn Cộng Sản của họ; quên những ngày vượt biên hãi hùng; quên những chết chóc của bạn bè, đồng đội, của người thân mà thủ phạm là các tên Cộng Sản. Điều tai hại là họ đã cố tình quên những đổ vỡ của quê nhà do CS gây ra. Họ đã và đang trở về Việt Nam hoặc để làm ăn, buôn bán với kẻ thù hoặc để hưởng thụ các thú vui vật chất để thỏa mãn thú tánh. Họ đã và đang làm hại cho chánh nghĩa của người Quốc gia. Hai vị Cựu Chủ tịch của một Hội đoàn chống Cộng khá nổi tiếng ở Montréal (Hội đoàn của những người đã cầm súng bảo vệ quê hương), đã đầu hàng CSVN để được về Việt Nam ăn chơi, du hý. Chỉ mới cách đây vài năm, mọi người trong Cộng Đồng còn tin tưởng 2 vị Cựu CT này thuộc nhóm của những người thề không đội trời chung với Cộng Sản. Nay mọi sự đã đổi thay, lời thề năm nào đã thành chuyện của quá khứ, nên chôn vùi đi là hơn. Cơn nguy biến đã qua, người ta không mấy khi nhớ những gì đã hứa (Le péril passé, on ne se souvient guère de ce qu’on a promis ) như người xưa đã nói. Một số tên tuổi trong các Cộng Đồng người Việt tị nạn như Phạm Duy, Nguyễn Cao Kỳ, Đỗ Mậu… đã về Việt Nam, đầu hàng những kẻ thù cũ. Họ đã muối mặt phủ nhận cái quá khứ chiến đấu chống Cộng để đánh đĩ tâm hồn, thốt lên những lời ca tụng những kẻ đang phá hoại quê hương.
– Thời gian là yếu tố bất lợi cho những người chống Cộng. Sau hơn 30 năm tại Hải ngoại, số người chống Cộng nhiệt tình nhứt càng ngày càng bớt đi vì tuổi tác, bệnh tật. Tinh thần Quốc gia chống Cộng sẽ không còn ở thế hệ thứ hai, thứ ba. Các thế hệ đó được sanh ra, lớn lên và trưởng thành tại các xứ tự do. Họ không có kinh nghiệm sống với Cộng Sản, không có một quá khứ chống Cộng như cha ông của họ. Trái lại tại quê nhà, các con cháu của những tai to mặt lớn Cộng Sản được huấn luyện để kế nghiệp cha ông, tiếp tục cầm quyền ở Việt Nam. Vì mệt mỏi và tuổi tác nên một số Hội đoàn bị khủng hoảng lãnh đạo, tìm không ra người gánh vác công việc chung. Cộng Sản đã lợi dụng khủng hoảng này để từ từ đưa người của chúng hay đưa người có cảm tình với chúng vào các vị trí lãnh đạo. Khủng hoảng lãnh đạo đã khiến một Hội đoàn có quá trình hoạt động và lập trường chống Cộng khá vững chắc tại Montréal đã lần lượt chịu đựng 2 Chủ tịch rất kém tài đức, không có phong thái của người lãnh đạo, chưa nói đến khả năng. Một ông Chủ tịch một Hội đoàn khác đã vì quyền lợi cỏn con của gia đình mà hi sinh danh dự cuả cả cộng đồng người Việt chúng ta tại đây, trước chính quyền và người dân điạ phương, Nhưng ông vẫn được bầu ra vì không có người nào ra ứng cử, ngoại trừ ông.
– Kế hoạch xâm nhập các Cộng Đồng tị nạn tinh vi của Cộng Sản
Kế hoạch xâm nhập các CĐ của CS rất tinh vi. Một thí dụ theo nghị quyết 36 của chúng: Tích cực đầu tư cho các chương trình dậy tiếng Việt cho người Việt ở nước ngoài. Tổ chức cho các đoàn nghệ thuật, nhứt là các đoàn nghệ thuật dân tộc ra nước ngoài biểu diễn… Đầu tư cho các chương trình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài như đài phát thanh, truyền hình và internet… Hỗ trợ việc ra báo viết, mở đài phát thanh, truyền hình ở nước ngoài. Hỗ trợ kinh phí vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gửi sách báo, văn hóa phẩm ra ngoài .
Tác dụng của nghị quyết 36 đã được cảm thấy tại Montréal. Ngay tại Montréal, một số các hội đoàn (như Gia đình Giáo chức, Hội Phụ nữ…) công khai tuyên bố không làm chánh trị tức là không chống Cộng Sản. Họ từ chối tham dự mọi sanh hoạt có tánh cách biểu dương lập trường quốc gia của người Việt tị nạn. Mới đây, một Hội đoàn quốc gia rất có uy tín tại Montréal đã bầu một vị Chủ tịch mới để thay thế Chủ tịch tiền nhiệm vừa đột ngột từ trần (bị đầu độc???). Chủ tịch đắc cử qua cuộc bầu cử độc diễn này là người đã và đang buôn bán công khai với Cộng Sản Việt Nam từ hàng chục năm qua. Trong quá khứ, người ta chưa bao giờ thấy vị CT này có mặt trong các hoạt động chánh trị của Cộng Đồng. Các thắc mắc về các hoạt động buôn bán với Cộng Sản của vị Tân Chủ tịch đều bị cố tình lờ đi, bảo rằng: Hội ta không làmchánh trị. Các ténors của hội đã không ngớt lời ca tụng vị CT mới này, khẳng định tính cách phi chánh trị của Hội. Phải chăng phi chánh trị có nghĩa là nếu Cộng Sản thiệt lên làm CT cũng không sao ?
Cuốn sách giới thiệu các hoạt động của một Trung tâm văn hóa (?) tại Montréal đầy các từ ngữ Cộng Sản. Thí dụ Ban Giám Đốc được họ gọi là Ban Giám Hiệu, y hệt ngôn ngữ của Cộng Sản tại Việt Nam. Chủ tịch của Trung tâm đã đi đi về về Việt Nam như đi chợ, Chủ tịch tuyên bố về Việt Nam để tìm tài liệu cho cơ sở (?). Cờ quốc gia mầu vàng ba sọc đỏ ít được họ nghiêm chào trong các buổi sanh hoạt. Chúng ta sẽ không lấy làm ngạc nhiên, một ngày nào đó họ sẽ cho trưng bầy lá cờ máu của Cộng Sản để chào.
Ban Điều hành của một tờ báo có số phát hành khá cao tại Montréal đã không bao giờ cho đăng tải các bài viết có ý tưởng chống Cộng. Lý do: Báo của chúng tôi không làm chánh trị . Nhưng họ đã cố ý tổ chức Đại nhạc hội đúng vào ngày sanh nhựt của Hồ Chí Minh: 19 tháng 5. Vô tình hay cố ý đây? Phải chăng CS đã âm thầm theo đúng nghị quyết 36 để mua đứt tờ báo? Hay Ban Chủ trương của tờ báo đã bán linh hồn cho quỉ dữ CS?
Những hội đoàn và những cá nhân từng tuyên bố “không làm chính trị” hay thậm chí làm ăn, giúp đỡ, che chở, kinh tài cho CS hãy nhớ kỹ tấm gương của người dân vô tội Huế, gương của bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh Long) trong Cải cách Ruộng đất (che chở cho “bác” và các đồng chí cuả “bác” để rồi cũng bị xử tử), hay gương cuả một ông dược sĩ nọ ở Saigon trước 75, đã mua thuốc trị bệnh cho “bác” để rồi khi CS chiếm miền Nam cũng bị đánh tư sản như thường. Cái gương đau đớn nhất cuả các ông bà trí thức trong Mặt Trận giải phóng miền Nam hãy còn ngờ ngờ đó. Quí vị đừng mơ tưởng khi CS đã chiếm đoạt được sự lãnh đạo người Việt hải ngoại nhờ thái độ “khôn ngoan” (hay hèn nhát?) “không làm chính trị” của quí vị là họ sẽ tiếp tục để quí vị vẫn lãnh đạo các Hội đoàn của quí vị và tiếp tục hợp tác hay sử dụng quí vị nữa.
***
Trong cuộc đấu tranh chống CS, người Việt quốc gia tại Hải ngoại khó đạt được thắng lợi, nếu không nói là sẽ thất bại, vì chính chúng ta không muốn thắng lợi:
– chúng ta vẫn gián tiếp cung cấp phương tiện, bằng cách này hay cách khác, chuyển tiền bạc cho kẻ thù.
– chúng ta tiếp tục đầu hàng kẻ thù, về VN để làm ăn, buôn bán, tìm thú vui
– chúng ta không tích cực dấn thân hoạt động, để mặc kẻ thù càng ngày càng thành công len lỏi trong hàng ngũ của chúng ta
– trong tập thể của chúng ta vẫn có người kêu gọi PHI CHÁNH TRỊ tức là từ chối tham dự mọi hoạt động có tính cách chống Cộng trong tập thể người Việt tha hương vì họa Cộng Sản tại quê nhà.
– thời gian là yếu tố bất lợi (le temps joue contre nous) cho chúng ta. Bệnh tật, tuổi tác, sức khỏe hao mòn với thời gian sẽ làm hàng ngũ của chúng ta càng ngày càng thưa vắng. Đã hơn 30 năm rồi mà kẻ thù vẫn nhởn nhơ trên quê hương.
Chúng ta đã đánh mất một nửa quê hương năm 1954, chúng ta đã mất cả quê hương năm 1975 vì chúng ta không có quyền lấy quyết định điều khiển cuộc kháng Cộng, vì chúng ta bị địch cấy độc tố không làm chánh trị . Nay chúng ta đang đứng trước viễn tượng có thể sẽ thua cuộc một lần nữa, nhưng thua cuộc lần này là do lỗi của chính chúng ta:
Chúng ta đã và đang trợ giúp kẻ thù bằng cách này hay cách khác.
Montreal, Canada
Nguyễn Bách