Biển Đông: Làm sao giảm nguy cơ bùng nổ chiến tranh?
Lời người post: Đọc bài này thấy những đề xuất của Giáo sư Hu Bo (Trung Cộng), giám đốc Trung tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Biển thuộc Viện Nghiên Cứu Đại Dương ở Bắc Kinh… Xem ra, đó là ý đồ của Tập Cận Bình kế sách “dừng một bước, tiến ba bước” của chủ nghĩa Đại Hán. Và từ đó chúng ta cũng nhận ra là nhược điểm của Trung Cộng trong ý đồ xâm lăng trắng trợn bị thế giới thấy rõ và cương quyết chống lại nhất là Mỹ… Cuộc chống lại sự bành trướng của Đại Hán Tập Cận Bình bắt đầu từ thương chiến làm chao đảo nền kinh tế Trung Cộng đến tố cáo vi phạm nhân quyền ở Tân Cương, Tây Tạng và Pháp Luân Công…Tập Cận Bình và đảng Cộng sản tàu khó duy trì quyền lực… nên tạm đề nghị “dừng” để củng cố quyền lực độc tôn.
Biển Đông đang trở thành lò thuốc súng. Theo nhiều nhà quan sát, trong năm 2020, vùng biển này là một trong những điểm nóng nhất hành tinh, nguy cơ bùng phát xung đột vũ trang là nhãn tiền, đặc biệt giữa Trung Cộng với Hoa Kỳ, giữa Bắc Kinh và một số quốc gia khu vực. Vì sao nguy cơ xung đột gia tăng, và làm thế nào để giảm nguy cơ bùng nổ chiến tranh? Đó là câu hỏi ngày càng ám ảnh giới chuyên gia.
Tại sao lại là Biển Đông?
Bài ”Trung Cộng gần hoàn tất chương trình (quân sự hóa) “nguy hiểm” tại Biển Đông”, đăng tải ngày 02/01/2019, trên trang web hàng đầu nước Úc news.com.au, nhấn mạnh đến cuộc chạy đua vũ trang gia tăng tại Biển Đông, giữa một bên là Trung Cộng, bên kia là các quốc gia láng giềng đang bị Bắc Kinh đẩy vào chân tường, buộc phải tăng chi phí quốc phòng.
Khoảng 15 năm trở lại đây, chi phí quân sự tại khu vực tăng gấp đôi, chủ yếu để chuẩn bị cho ”một cuộc chiến tranh quy ước với cường độ cao”. Theo ghi nhận của một cựu chuyên gia tình báo Úc, tiến sĩ Mark Bailey, sau gần 20 năm lấn dần từng bước một, Trung Cộng đã xây dựng, củng cố cơ sở quân sự trên các đảo nhân tạo, và dần dần bình thường hóa việc kiểm soát trên thực tế gần như toàn bộ vùng Biển Đông. Cựu chuyên gia tình báo Úc so sánh tình hình hiện nay tại Biển Đông với thập niên 1930, khi đế quốc Nhật bành trướng quân sự, trước khi dùng vũ lực đánh bật các đối thủ, để độc chiếm vùng biển chiến lược này. Đây là lần thứ hai trong lịch sử, một cường quốc có tham vọng nguy hiểm như vậy.
Trong tình hình nguy cơ xung đột nhãn tiền, trang mạng The Diplomat ngày đầu năm mới, đăng tải một bài phân tích đáng chú ý của học giả Trung Cộng, mang tựa đề ”Ba chìa khóa để Hải Quân Trung Cộng và Hoa Kỳ cùng tồn tại hòa bình”. Giáo sư Hu Bo, giám đốc Trung tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Biển thuộc Viện Nghiên Cứu Đại Dương ở Bắc Kinh, thừa nhận nguy cơ ”xung đột vũ trang ở quy mô nhỏ” tại Biển Đông, trong tình hình cả Hoa Kỳ và Trung Cộng đều sẵn sàng chuẩn bị cho những kịch bản tồi tệ nhất.
Tác giả đề xuất ba việc cần làm để giảm nguy cơ xung đột vũ trang. Đề xuất thứ nhất là Hoa Kỳ và Trung Cộng cần đạt được đồng thuận về việc chia sẻ quyền lực tại khu vực Tây Thái Bình Dương. Theo tác giả, tương quan lực lượng tại vùng biển này đang từ từ nghiêng về phía Bắc Kinh, với các đầu tư hiện đại hóa quân sự từ hàng chục năm nay, cho dù xét về sức mạnh tuyệt đối, hiện tại cũng như thời gian tới, Trung Cộng không thể nào sánh ngang nước Mỹ. Tuy nhiên, xét về lâu dài, Trung Cộng sẽ có sức mạnh quân sự áp đảo tại các vùng ven bờ, cụ thể là ở Biển Đông và biển Hoa Đông, và đây là điều mà tác giả khuyến cáo Washington nên chấp nhận như một thực tế. Như vậy, hai bên cần dàn xếp để duy trì đối thoại chiến lược về khu vực Tây Thái Bình Dương, nhằm hạn chế chạy đua vũ trang, tạo thế cân bằng lực lượng tại khu vực này. Và đây chính là khuôn khổ bảo đảm an ninh chung.
Đề xuất thứ hai mà tác giả khuyến cáo là hai đại cường cần nỗ lực khai triển thiết lập các quy tắc an ninh trên biển, nhằm duy trì ổn định tại khu vực. Tác giả nhấn mạnh Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) là một nền tảng quan trọng, nhưng không đủ để thiết lập trật tự và an ninh. Theo học giả Trung Cộng, do cả Bắc Kinh và Washington đều không đủ sức mạnh để đơn phương áp đặt trật tự, các quy tắc này phụ thuộc vào sự đồng ý của cả hai bên. Về vấn đề này, có hai bước cần tiến hành. Thứ nhất là xác lập các quy tắc để tránh va chạm ngoài ý muốn giữa Hải Quân và Không Quân hai nước tại vùng biển này. Và thứ hai là xác định các quy tắc chung cho các hoạt động quân sự nhằm tránh mọi xu hướng leo thang nguy hiểm.
Khuyến cáo Mỹ ”trung lập” liệu có khả thi?
Hai đề xuất nói trên của học giả Trung Cộng gián tiếp thừa nhận sự hiện diện quân sự của Mỹ tại Biển Đông. Đề xuất thứ ba, và cũng là điểm đặc biệt đáng chú ý trong bài viết của học giả Trung Cộng là việc khuyến cáo Hoa Kỳ nên có lập trường ”trung lập” về các yêu sách chủ quyền của Trung Cộng tại Biển Đông. Tác giả cảnh báo mọi can thiệp của Hoa Kỳ, đứng về phía một hoặc các bên tranh chấp chủ quyền với Bắc Kinh, có thể dẫn đến ”các phản ứng dữ dội” từ phía Trung Cộng. Lợi ích mà nước Mỹ thu được khi làm như vậy sẽ nhỏ hơn rất nhiều các thiệt hại, và thậm chí các can thiệp đó có thể dẫn đến đối thoại với Trung Cộng bị cắt đứt, trật tự do Mỹ tạo lập tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ”sụp đổ hoàn toàn”.
Có thể nói đề xuất thứ ba này liên quan đến nguy cơ trực tiếp và chủ yếu dẫn đến bùng nổ xung đột vũ trang tại Biển Đông, khi Hoa Kỳ đứng về phía một quốc gia ven bờ không chấp nhận sự lấn lướt của Trung Cộng. Trong bảng xếp hạng các quốc gia ven bờ có nguy cơ đụng độ vũ trang với Bắc Kinh của Hội Đồng Quan Hệ Đối Ngoại Hoa Kỳ, Việt Nam xếp cuối theo trật tự abc. Tuy nhiên, trên thực tế, Hà Nội đang nằm ở tuyến đầu trong thế trận quốc tế đang dần dần hình thành, chống lại đà bành trướng Trung Cộng. Trong nửa cuối năm vừa qua, tuần duyên Việt Nam phải đối đầu liên tục trong bốn tháng với tuần duyên Trung Cộng, xâm nhập khu vực đặc quyền kinh tế, quấy nhiễu giàn khoan.
Nhà phân tích quân sự Derek Grossman, trung tâm tư vấn chiến lược RAND, chuyên về khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, phát biểu với báo Úc, ghi nhận Hà Nội đang nỗ lực phát triển mạng lưới hợp tác quốc phòng với nhiều nước ASEAN, cùng Úc, Nhật Bản và Ấn Độ – ba quốc gia trong Bộ Tứ đi đầu trong việc duy trì khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương ”rộng mở và tự do”, dựa trên luật pháp quốc tế. Washington cũng ủng hộ nỗ lực bảo vệ quyền chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, và chính thức bước đầu hỗ trợ Hà Nội về hải quân.
Xét trong tình hình như vậy, liệu khuyến cáo của học giả Trung Cộng, để Washington từ bỏ sự ủng hộ đối với các quốc gia Đông Nam Á đang bị Bắc Kinh lấn át, có thể nào là khả thi không?
Theo Trọng Thành RFI