Biên Cương Đang Biến Mất tại Vùng Biển Nam Hải

Một đảo nhân tạo Trung Cộng tự bồi và đặt căn cứ quân sự tại Biển Đông

Hoa kỳ cần hành động nhiều hơn để ngăn chặn Trung cộng lấn chiếm

Bài của Bonnie S. Glaser and Gregory Poling

Ngày 27 tháng 5, hai tàu Hải quân Hoa Kỳ tham dự chiến dịch tự do hải hành gần Quần đảo Hoàng Sa để thử thách Trung cộng trước những yêu sách của nước này về chủ quyền lãnh hải ở vùng Biển Nam Hải. Tại cuộc đối thoại Shangri-La ở Singapore vài ngày sau đó, khi được hỏi về thao diễn của một đại tá cấp cao trong Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA), thì Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis nói, “Chúng tôi không chỉ nhắm vào tự do hải hành cho một mình Hoa Kỳ…mà là  tự do cho tất cả các quốc gia, lớn và nhỏ, cần phải qua lại những vùng biển đó vì sự thịnh vượng của chính họ và họ có mọi lý do để làm như vậy.” Tuy nhiên, bất chấp những tuyên bố như thế và sự gia tăng hoạt động của Hải quân Hoa Kỳ, Trung cộng tiếp tục thành công trong việc đều đặn hạn chế các quyền tự do ở Biển Nam Hải, đặc biệt là với những quốc gia láng giềng. Hành vi này là hồi chuông báo tử trực tiếp đến các nước đang phát triển trong vùng, và, rộng hơn, là đe dọa luật pháp quốc tế và sự quan tâm của Hoa Kỳ trong việc duy trì trật-tự-dựa-trên-quy-tắc.

TỪ BỎ QUYỀN HÀNH: Trong năm qua, Trung cộng hung hãn hạn chế hoạt động của các quốc gia láng giềng ở vùng Biển Nam Hải. Hai lần trong khoảng thời gian đó – vào tháng 7 năm 2017 và lần nữa vào tháng 3 năm 2018 – Trung cộng dùng võ khí, và hăm dọa xử dụng võ lực, nhằm đình chỉ hai dự án khoan khí đốt thiên nhiên trên thềm lục địa Việt Nam. Với Philippines, Bắc Kinh thúc đẩy để chúng được phát triển về dầu khí và hơi đốt trong khu vực đáy biển mà một tòa án quốc tế đã ra phán quyết là thuộc vùng đặc quyền của Manila. Vào cuối tháng 3, chính phủ Việt Nam vào phút chót ra lệnh cho công ty năng lượng Repsol của Tây Ban Nha  phải đình chỉ hoạt động về dự án dầu và hơi đốt trong một phần của mỏ Cá Rồng Đỏ (Red Emperor). Repsol đã đưa giàn khoan rời khỏi khu vực dự án và cùng với các (công ty) cộng tác khác, đã chi khoảng 200 triệu đô la cho dự án. Một biến cố tương tự xảy ra vào tháng 7 năm ngoái, khi Repsol bắt đầu khoan giếng trong một khối gần đó thì đã bị buộc phải dừng lại sau khi nhà cầm quyền Trung cộng đe dọa tấn công các trạm của Việt Nam trong khu vực nếu công việc tiến hành. Trong trường hợp đó, Repsol đã chi khoảng 300 triệu đô la. Vào đầu tháng 5, Rosneft của Nga đã bắt đầu khoan giếng sản xuất mới tại mỏ Lan Đỏ trong Lô 06.1, là một phần của dự án năng lượng ngoài khơi quan trọng nhất của Việt Nam. Đầu thập niên 2000, BP cùng với các (công ty) cộng tác khác kể cả  Conoco Phillips, đã xây dựng đường ống Nam Côn Sơn để vận chuyển khí từ mỏ Lan Tây trong Lô 06.1, nhưng từ năm 2008 đến 2012, Conoco Phillips đã lấy lại tất cả vốn liếng về năng lượng của mình tại Việt Nam, bao gồm cả phần đặt cọc cho dự án, chỉ vì áp lực từ Trung Cộng. BP theo sau, đồng ý vào năm 2010 sẽ bán vốn liếng của mình cho TNK-BP của Nga (từ đó Rosneft làm chủ). Các ước tính thay đổi theo từng năm, nhưng Lô 06.1 có khả năng cung cấp khoảng 10% toàn thể nhu cầu năng lượng của Việt Nam, khiến dự án thêm gay go trong vấn đề an ninh năng lượng quốc gia.

Đến nay, các công ty Nga tham dự vào khu vực năng lượng ngoài khơi của Việt Nam đã không phải đối diện với áp lực như vậy từ Bắc Kinh như các đối tượng Tây phương, nhưng không rõ sẽ mãi như vậy hay không. Đáp lại lời tuyên bố của Rosneft rằng họ sẽ khoan giếng mới trong Lô 06.1, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung cộng nói: 

“Tôi muốn nhắc lại rằng không một quốc gia, tổ chức, công ty hay cá nhân nào, nếu không có sự cho phép của chính phủ Trung cộng, lại thực hiện các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trong vùng biển thuộc thẩm quyền của Trung cộng. Chúng tôi thúc đẩy các bên liên hệ cần tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung cộng và không làm bất cứ điều gì có thể tác động đến quan hệ song phương và hòa bình và ổn định trong khu vực.

Ở phía bên kia Biển Nam Hải, Philippines trong hơn một thập kỷ từng háo hức muốn khai thác trữ lượng khí đốt thiên nhiên bên dưới Reed Bank nhưng bị Trung cộng phản đối và ngăn cản. Năm 2011, một tàu khảo sát do Forum Energy thuê đã bị các tàu hải quân Trung cộng trục xuất khỏi khu vực. Forum Energy do Công ty Năng lượng PXP của Philippines làm chủ. Công ty đã cố gắng thăm dò trở lại vào năm 2014 nhưng đã bị chính phủ Philippines  ngăn chặn, khi Phi đang theo đuổi vụ kiện tại tòa án trọng tài Hague, nhằm chống lại yêu sách của Trung cộng. Philippines thắng kiện vào tháng Bảy năm 2016, được xác nhận đặc quyền đối với Reed Bank, nhưng Manila vẫn không muốn mạo hiểm chọc giận Bắc Kinh bằng cách bật đèn xanh thám hiểm.

Việc cưỡng ép Manila và Hà Nội phải chia xẻ tài nguyên ở những khu vực này sẽ giúp hợp thứca các yêu sách của Trung cộng rằng Trung cộng duy trì các quyền lợi lịch sử trên khắp Biển Nam Hải. Nếu Việt Nam và Philippines buộc phải thực hiện phát triển chung và từ bỏ quyền hành dành riêng cho họ, thì đó sẽ là một đòn nặng giáng vào cái trậttựdựatrênquytắc, và vào Hoa kỳ, vẫn được xem là  quốc gia bảo vệ trật tự đó. 

Vào tháng 5 năm 2017, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte nói với báo chí rằng Chủ Tịch Trung cộng Tập Cận Bình đã cảnh cáo rằng bất kỳ nỗ lực đơn phương khai thác tài nguyên tại Reed Bank đều có nghĩa là chiến tranh. Vì thiếu chỗ dựa nên Manila đã đàm phán với Bắc Kinh để cùng phát triển dầu và khí đốt trong khu vực. Mặc dù hai phía chính thức lạc quan, vẫn không thấy có vẻ gì là sắp xếp việc này. Hiến pháp Philippines quy định rằng chính phủ bảo vệ quyền của đất nước đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, gồm cả tài nguyên ngoài khơi. Với phán quyết của trọng tài năm 2016 trao Reed Bank cho Philippines, nhiều chuyên gia pháp lý trong nước, bao gồm cả Xử Lý Chánh Án Tối Cao Pháp Viện Phi, đã từ khước việc phát triển chung vì vi hiến.

Trung cộng từ lâu đã thúc đẩy việc phát triển chung như một phương tiện để quản lý việc tranh chấp lãnh thổ và hàng hải với các nước láng giềng, đồng thời mở rộng quyền kiểm soát đối với phần đất và hải phận tranh chấp. Khởi đầu, Đặng Tiểu Bình đẩy mạnh chính sách “gạt bỏ các tranh chấp và theo đuổi việc phát triển chung” vào cuối những năm 1970, và đề nghị Nhật Bản cùng phát triển các nguồn tài nguyên trong vùng biển xung quanh quần đảo Senkaku / Diaoyu. Vào những năm 1980, Đặng đề nghị việc phát triển chung với Philippines nơi quần đảo Trường Sa.  Nhưng quan niệm của Bắc Kinh về việc gạt bỏ các tranh chấp và theo đuổi sự phát triển chung lại liên quan mật thiết đến việc sống sượng đòi hỏi chủ quyền.  Trong tiếng Tàu, chính sách này tóm gọn trong 12 chữ  “chủ quyền thuộc về Trung cộng, gạt tranh chấp sang một bên, theo đuổi việc phát triển chung.”  Mục tiêu của việc phát triển chung, nói cách khác, là thúc đẩy các quốc gia khác chấp nhận chủ quyền của Trung cộng.

Trong hầu hết trường hợp, các nước láng giềng Trung cộng đang tìm kiếm nguồn lợi tại các khu vực không thể tranh cãi được. Reed Bank đã được đặc biệt công nhận là một phần trong thềm lục địa của Philippines tại phán quyết của tòa trọng tài năm 2016. Vanguard Bank, bao gồm các khối mà Repsol định khoan, là một phần của thềm lục địa của Việt Nam, đã thỏa thuận với Indonesia và Malaysia. Các khối này nằm xa phạm vi Trung cộng yêu sách, tức là giới hạn trong khu vực hải phận quanh các quần đảo tranh chấp. Tuy nhiên, việc cưỡng buộc Manila và Hà Nội chia xẻ tài nguyên ở các khu vực này sẽ giúp hợp thức hóa việc Trung cộng ngông nghênh lên tiếng là Trung cộng duy trì quyền lịch sử trên khắp Biển Nam Hải, trái với phán quyết của trọng tài năm 2016 và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) (công ước) trao  cho các quốc gia đặc quyền về tài nguyên thuộc thềm lục địa của họ. Nếu Việt Nam và Philippines buộc phải thực hiện phát triển chung và từ bỏ quyền đặc quyền của Việt Nam và Phi, thì đây sẽ là một đòn nặng giáng vào cái trật-tự-dựa-trên-quy-tắc, và vào Hoa kỳ, vẫn được tín nhiệm là  quốc gia bảo vệ trật tự đó. 

CÁI GIÁ KINH TẾ NẶNG NỀ

Điều quan trọng cần lưu ý là hành vi của Bắc Kinh ở Biển Nam Hải không liên quan đến nhu cầu năng lượng lớn của Trung cộng. Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ ước tính rằng Biển Nam Hải chiếm khoảng 14 nghìn tỷ mét khối khí thiên nhiên và 16 tỷ đến 33 tỷ thùng dầu, hầu hết nằm dưới thềm lục địa của các nước Đông Nam Á láng giềng của Trung cộng. Theo quan điểm, nhu cầu năng lượng của Trung cộng trong năm 2018 dự kiến ​​sẽ đạt 12,5 triệu thùng dầu mỗi ngày. Trữ lượng dầu và khí đốt khai thác trên thềm lục địa của Philippines và Việt Nam chỉ là một giọt trong cái xô nhu cầu của Trung cộng. Mục đích chính của Trung cộng khi kêu gọi phát triển chung không phải là làm dịu cơn khát về năng lượng mà là tăng cường yêu sách của Trung cộng.

Với hàng xóm của Trung cộng, thì vì thiếu khả năng độc lập trong việc phát triển nguồn năng lượng cho nên phải kèm theo cái giá phải trả. Nguồn duy nhất cung cấp gần một nửa lượng điện cho hòn đảo chính, Luzon, Phillippines là từ mỏ khí Malampaya, dự kiến ​​sẽ bắt đầu cạn kiệt vào khoảng năm 2024. Trừ khi có nguồn thay thế, nước này sẽ cần phải nhập một lượng đáng kể khí đốt, hoặc nhanh chóng kết hợp các nguồn năng lượng khác, hoặc phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng. Reed Bank là lựa chọn tốt nhất cho Manila nhằm thay thế nguồn cung cấp từ Malampaya, nhưng việc chuẩn bị một mỏ khí mới ​​sẽ mất khoảng 10 năm. Điều này khiến một ngày Phi không thăm dò là một ngày tốn kém hơn so với hôm trước. 

Sau khi dự án Repsol bị đình chỉ tại mỏ Red Emperor, công ty năng lượng PetroVietnam thuộc sở hữu nhà nước dám thú nhận rằng căng thẳng ở Biển Nam Hải đang gây tổn thương cho các hoạt động khai thác ngoài khơi Việt Nam. Sản lượng dầu thô của Việt Nam trong năm nay dự kiến ​​sẽ giảm xuống còn 227.000 thùng / ngày, giảm 14,7% so với năm 2017. Hà Nội cũng có thể sẽ phải trả hàng trăm triệu đô la cho Repsol và các công ty cộng tác. Tệ hơn nữa là tác động lâu dài về khả năng Việt Nam có thu hút nổi sự quan tâm từ các công ty ngoại quốc trước các nguồn năng lượng ngoài khơi. Đến năm 2015, BP, Chevron và ConocoPhillips đã bị buộc phải rút các khoản đầu tư khi vốn và nhân viên của các công ty này bị Trung cộng đe dọa, và việc đe dọa bắt đầu leo ​​thang vào giữa những năm 2000. Ngoài Rosneft và Gazprom của Nga, rất ít công ty nước ngoài còn đầu tư vào lĩnh vực năng lượng ngoài khơi của Việt Nam. Dự án hứa hẹn nhất vẫn còn nằm trên đường chân trời là kế hoạch đầy tham vọng của ExxonMobil nhằm khai thác khí đốt thiên nhiên trong mỏ Cá Voi Xanh (khoảng mười hải lý từ đường chín vạch của Trung cộng), là phân ranh Bắc Kinh xử dụng để khẳng định các yêu sách lãnh thổ ở Biển Đông, nhưng công ty này đã  hoãn quyết định cuối cùng  cho đến năm 2019.

PHẢN ỨNG CỨNG RẮN HƠN CỦA HOA KỲ Một Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do rộng mở đòi hỏi phải duy trì tất cả việc xử dụng hợp pháp biển cả, bao gồm quyền hành của các quốc gia ven biển đối với nguồn tài nguyên trong vùng biển và thềm lục địa của quốc gia đó. Nếu Hoa Kỳ chứng tỏ Hoa Kỳ có khả năng bảo vệ tự do hải hành quân sự của Hoa Kỳ nhưng không phải là tự do rộng lớn hơn nơi các vùng biển Ấn Độ-Thái Bình Dương, thì vị trí của Hoa Kỳ trong khu vực sẽ bị suy yếu nghiêm trọng. Các quốc gia Á châu sẽ thấy sự  hiện diện của Hoa Kỳ chỉ có giá trị ít ỏi đến mức không thể thúc đẩy quyền lợi của Hoa Kỳ hoặc bảo vệ luật pháp quốc tế, điều này sẽ khiến các quốc gia này bớt ủng hộ các nỗ lực của Hoa thịnh Đốn và nhiều khả năng là sẽ giao dịch – ngay cả những giao dịch bất công – với Bắc Kinh trong trường hợp các quốc gia không có chọn lựa nào tốt hơn.

ERIK DE CASTRO / REUTERS

Nhìn từ trên không đảo Thitu do Philippines chiếm ngự, trong khu vực tranh chấp ở biển Nam Hải

Do bị sao lãng bởi các khủng hoảng khác và không được xử dụng để đối đầu với những thách thức, mà chỉ xử dụng cưỡng chế, trong khi thiếu hành động quân sự thực sự, thì các công cụ về chính sách của Washington cho đến nay đã chứng minh là vô cùng bất túc. Tại buổi điều trần của Ủy Ban Đối Ngoại Thượng Viện vào ngày 15 tháng 5, Xử lý Ngoại trưởng Alex Wong nói chính sách về Biển Nam Hải của chính quyền Trump bao gồm bốn điều: tự do hải hành, ngoại giao trên căn bản pháp lý, hỗ trợ an ninh hàng hải, và trợ giúp cho nỗ lực của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á, để thương thảo một quy tắc ứng xử với Trung cộng. Nhưng tất cả những điều này đều là trọng tâm của chính sách của Hoa Kỳ về Biển Nam Hải kể từ thời chính quyền Obama, và trong khi cần thiết, đã chứng tỏ là không đủ để ngăn chặn Trung  cộng giới hạn tự do biển cả.

Chính quyền nên chủ động hơn trong việc vận động những phản kháng quốc tế nhằm chống lại hành động của Trung cộng và bảo đảm rằng Bắc Kinh sẽ phải đối mặt với việc đẩy lùi về mặt ngoại giao và (sẽ) bị cô lập. Về mặt này, thì Bộ Quốc phòng Mỹ đã tiến một bước quan trọng vào cuối tháng 5 bằng cách rút lời mời Hải quân Trung cộng tham dự cuộc tập trận hải quân 2018 tại Thái Bình Dương – là cuộc tập trận hải quân đa phương lớn nhất thế giới – mà theo lời phát ngôn viên của Ngũ Giác Đài là “Phản ứng tiên khởi trước việc Trung cộng tiếp tục quân sự hóa vùng biển Nam Hải.” Việc rút lời mời đã khiến Trung cộng phải trả giá đáng kể về uy tín, và những nỗ lực đó nên được tiếp tục, đặc biệt là trong khi đang thuận thảo với các cộng tác quốc tế. Sắp tới, Lễ kỷ niệm hai năm phán quyết 2016 là cơ hội cho Hoa Kỳ lên tiếng mạnh mẽ chống lại sự cưỡng ép của Trung cộng.

Nhưng cái giá về uy tín mà thôi hầu như không khiến Bắc Kinh điều chỉnh các yêu sách hay thay đổi hành vi. Để đạt được mục đích đó, Hoa Kỳ sẽ phải thực hiện một chiến lược đẩy lùi rộng lớn hơn, khiến có thể làm tăng nguy cơ đối đầu quân sự với Trung cộng. Nếu Hoa Kỳ chọn biện pháp cứng rắn  hơn nhằm ngăn chặn những thay đổi của Trung cộng đối với hiện trạng ở Biển Nam Hải, thì bước quan trọng là phải tái khẳng định và minh bạch việc cam kết thực hiện thỏa ước giữa Hoa Kỳ và Philippines. Một tuyên bố công khai từ Hoa Kỳ – tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ coi bất kỳ cuộc tấn công nào vào quân đội, tàu chiến, hoặc máy bay Philippines ở Biển Nam Hải đều là vi phạm Thỏa Ước Quốc Phòng Hỗ Tương – (như thế) sẽ giảm khả năng Trung cộng dùng bạo lực chống lại Philippines. Việc Trung cộng quấy nhiễu các hoạt động của Philippine tháng trước, khi Phi tiếp tế cho các thủy quân lục chiến trên chiếc Second Thomas Shoal, có liên quan đến tàu hải quân và tàu bảo vệ bờ biển của Trung cộng, là  lời nhắc nhở về sự cần thiết phải tăng cường việc ngăn chặn xung đột. Để việc cam kết đáng tin cậy, thì các quan chức Hoa Kỳ nên thúc đẩy Philippines thực hiện đầy đủ Thỏa Hiệp Hợp Tác Tăng Cường Quốc phòng 2014, và bao gồm việc luân chuyển các máy bay chiến đấu của Hoa Kỳ tại các căn cứ ở Philippines để có thể phản ứng nhanh chóng khi xảy ra biến cố ở Biển Nam Hải. Hoa Kỳ cũng nên xem xét cách thức Hoa Kỳ hỗ trợ rõ ràng hơn  các quyền hành về biển cả của chính các quốc gia Đông Nam Á.  Một bước tương đối dễ dàng là chuyển từ tập trung vào “tự do hải hành”, mà các quốc gia châu Á coi là chính yếu chỉ nhằm giúp các hoạt động quân sự và hải vận thương mại của Hoa Kỳ, sang “tự do biển cả”, việc này rõ ràng hơn vì bao gồm tất cả việc xử dụng hợp pháp các đại dương và sẽ đe dọa trực tiếp Trung cộng nhiều hơn. Điều đó sẽ củng cố niềm tin của các Quốc gia Đông Nam Á cộng tác viên trong việc đứng lên đối trả lại sự ép buộc của Trung cộng, vì việc này sẽ báo hiệu rằng Hoa Kỳ cam kết duy trì quyền tự do của các quốc gia này, chứ không chỉ riêng Hoa Kỳ. Điều này, kết hợp với cam kết bảo vệ Philippines nếu bị Trung cộng tấn công trong khi phát triển vùng biển và thềm lục địa riêng của Phi, sẽ gửi ra một thông điệp vô cùng mạnh mẽ. Không rõ liệu chính quyền Trump có dự định áp dụng một chiến lược đẩy lùi mạnh mẽ hơn ở Biển Nam Hải hay không. Nhưng nếu không có chiến lược nào thì Hoa Kỳ sẽ thất bại trong các mục đích đã nêu. Phụ Tá Ngoại trưởng Susan Thornton khi ra điều trần trước Ủy Ban Đối Ngoại Thượng Viện vào tháng Hai, đã nói rằng “chúng tôi sẽ không tuân thủ trước các nỗ lực của Trung cộng nhằm thay thế Hoa Kỳ ở châu Á, cưỡng ép các nước trong khu vực và… chúng tôi sẽ không để bị lợi dụng… Luật lệ và tiêu chuẩn phải được tôn trọng và các quốc gia không thể bị uy hiếp hay đe dọa, mà phải được đối xử công bằng.” Nhưng thật không may, điều đó không chính xác xảy ra ở Biển Nam Hải, vì Bắc Kinh ngày càng uy hiếp và ép buộc các nước láng giềng của họ phải ra khỏi quyền hành của họ trên vùng biển và thềm lục địa của các quốc gia này. Bất kỳ sự đẩy lùi có hiệu quả nào của Hoa Kỳ sẽ đòi hỏi các sáng kiến ​​táo bạo, khả năng chịu đựng rủi ro cao hơn, và cam kết bảo vệ không chỉ các quyền tự do của Hoa Kỳ trên biển cả mà còn của các quốc gia cộng tác.

Chuyển Ngữ: An Hưng Houston, Texas

English: Vanishing Border South China Sea

Nguyên bản: https://www.foreignaffairs.com/articles/china/2018-06-05/vanishing-borders-south-china-sea

Đồng tác giả:

Bà Bonnie S. Glaser tốt nghiệp cử nhân chính trị học Đại học Boston và cao học về ngành kinh đại học Johyn Hopkins. Bà từng là cố vấn cao cấp về châu Á, Giám đốc “china Power Project” tại CSIS (Center for Strategic and International Studies). Bà Glasser làm việc liên hệ chặt chẽ đến Châu Á-Thái Bình Dương. Bà Glaser  là chuyên viên tham vấn cho nhiều phần bộ của chính phủ Hoa Kỳ trong đó có Bộ Quốc Phòng. Bà đã xuất bản Washington Quarterly, China Quarterly, Asian Survey, International Security, Contemporary Southeast Asia, American Foreign Policy Interests, Far Eastern Economic Review, and Korean Journal of Defense Analysis. Và bà là bình luận gia cho nhiều báo lớn như New York TimesInternational Herald Tribune.

Gregory B. Poling là giám đốc Sáng kiến ​​Minh bạch Hàng hải Châu Á và là đồng nghiệp của Chương trình Đông Nam Á tại CSIS. Ông giám sát nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Mỹ ở Châu Á Thái Bình Dương, tập trung đặc biệt vào lĩnh vực hàng hải và các nước Đông Nam Á. Lợi ích nghiên cứu của ông bao gồm các tranh chấp Biển Đông, nền dân chủ ở Đông Nam Á, và chủ nghĩa đa phương châu Á. Các tác phẩm của ông Poling đã được đăng trong Foreign Affairs , Wall Street, Nikkei Asian Review, và Foreign Policy, cùng với các tác phẩm khác. Ông là tác giả của Biển Đông:  tập trung làm rõ các giới hạn của Tranh chấp Hàng hải (CSIS, tháng 7 năm 2013) và đồng tác giả của nhiều tác phẩm khác, bao gồm Xây dựng một Liên minh Mỹ-Phi mạnh mẽ hơn (CSIS, tháng 8 năm 2015), Kỷ nguyên mới Quan hệ Mỹ-Việt: Quan hệ sâu sắc Hai thập kỷ sau khi chuẩn hóa (CSIS, tháng 6 năm 2014), và quan hệ đối tác Mỹ-Indonesia cho năm 2020: Khuyến nghị giả mạo mối quan hệ thế kỷ 21 (CSIS, tháng 9 năm 2013). Ông Poling nhận bằng Thạc sĩ về các vấn đề quốc tế của Đại học Mỹ, về lịch sử và triết học từ trường Cao đẳng St. Mary của Maryland, và theo học tại Đại học Fudan ở Thượng Hải, nước Trung Hoa.

Facebooktwitterpinterestlinkedinmail

Sáng Lập Đảng

Nguyễn Thái Học người Sáng Lập Việt Nam Quốc Dân Đảng

Tìm Bài Theo Tháng

Tự Điển Hỏi Ngã Tiếng Việt