Trong Lòng Hệ Thống Công An-Mật Vụ Cộng Sản (2)
Gián-điệp bao-trùm toàn-thể các hoạt-động về nghiên-cứu và khai thác thông-tin về mọi loại vì lợi-ích của đệ tam nhân. Mọi quốc-gia đều thực-hành gián-điệp…Dẫu sao cũng có một khác-biệt sâu xa về bản-chất giữa những sở gián-điệp cộng-sản và tây-phương.Trong khi ở tây phương,các sở gián-điệp,phản-gián và các cơ-quan lo về an-ninh như cảnh-sát hay là quan-thuế là những định chế pháp-lý,bị kiểm soát trên bình diện lập pháp,được phân-biệt trên bình-diện cơ cấu và tài-chánh,điều này hoàn toàn khác hẳn trong các nước cộng-sản. (Hiện nay, CSVN đang áp dụng kỹ thuật tổ chức tình báo CS để đàn áp nhân dân)
Bài của Nhữ Đình Hùng – Bài 2
Trong lòng hệ thống Tình báo Công An Mật vụ cộng-sản
VŨ KHÍ KHỦNG BỐ – Bài 2
Kể từ khi được thành lập,về chánh trị và chiến lược,Liên Bang Sô Viết (LBSV) đã sống trong niềm tin sẽ phải ở trong tình trạng chiến tranh với các nước tư bản.Loại trừ theo mục tiêu các “kẻ thù” là một hiệm vụ của những phân sở cộng sản.
Trong bối cảnh tổng quát đối đầu giữa các khối và chiến tranh lạnh,việc đả thực (anti-colonialisme) và phản-đế (anti-impéralisme) bao gồm việc lựa chọn xử dụng chủ nghĩa khủng bố và sự hỗ trợ các phong trào cách mạng như là đáp ứng cho nhữ gây hấn.Điều này cũng đúng cho Trung-Hoa đỏ sau năm 1945 và mọi nước cộng sản phi liên kết. Việc ám sát chánh trị là một áp dụng chung cho các xã hội chánh trị.Tuy thế,nó đã có một hình thái và một mở rộng đặc biệt trong hệ thống quyền lực cộng sản được thiết lập kể từ 1917.
Việc thanh toán,”một hoạt động chiến đấu của tchékistes” những” phương pháp và phương tiện đặc biệt” “những xử-lý chiến dịch” như là đã được viết trong các văn bản và sách của những phân sở đặc biệt cộng sản như GPU,Stasi hay KGB đã được đặt trên các lý luận được tiến triển cùng với thời gian.
Trong giai đoạn củng cố,đó là thời kỳ Lénie/Staline hay sau năm 1945 ở những quốc gia bị sát nhập,các cuộc ám sát được hiểu như phương tiện để loại trừ các người đối kháng trong nước (ngay cả khi đã đào tẩu ra nước ngoài) được ban lãnh đạo cộng sản coi như một yếu tố nguy hại trong tiến trình thiết lập xã hội dân sự. Các cuộc ám sát như thế mang vẻ “khủng bố” chánh trị.Sau khi Staline chết, các cuộc ám sát chánh-trị do các phân sở cộng sản thực hiện nhắm vào các nhân vật được coi là thù nghịch với hệ-thống cộng sản và như vậy thuộc về bên ngoài.
Kể từ năm 80, phần lớn các cuộc ám sát chánh trị là nhắm vào các “kẻ phản-bội” hay “chiêu hồi (transfuges),đó là những trí thức đã bỏ nước ra đi hay là các nhân viên các phân sở chạy sang hàng ngũ “địch”.Việc quyết định ám sát chánh trị luôn luôn là quyết định của ban lãnh đạo cộng sản cấp cao nhất,ngay cả khi đó là việc thanh toán một tên”chiêu hồỉ của sở mật vụ. Các “xử lý chiến dịch ” này cần những tiếp liệu quan trọng, bao gồm phương tiện kỹ thuật và chuyên gia.Về mặt kỹ thuật,từ năm 1920 Lénine đã ra lệnh cho tạo ra một phòng thí nghiệm về chất độc và đến năm 1937 hội nhập vào NKVD thủy tổ của KGB
.Được biết đến dưới tên “phòng thí nghiệm về chất độc n°12” và địa điểm sát cạnh Mạc Tư Khoa, phòng thí nghiệm này chuyên chú vào việc chế tạo các độc dược rất mạnh và dễ dàng đầu độc. Ông Guenrikh Iagoda (1981-1938) một dượccsĩ chuyên khoa và điều khiển NKVD từ tháng bảy 1934 đến tháng 9/1936,cũng như các người kế vị ông cầm đầu phân sở này đãc xử dụng một cách có hệ thống các độc dược để ám sát các người đối lập với chế độ bolchévique.
Như vào năm 1938,Lev Sedov,con trai của Léon Trotski đã chết sau khi giải phẫu ruột dư trong một b ệnh viện ở Paris do các người do những người di cư Nga điều khiển, nhưng họ đã làm việc cho NKVD. Những bệnh viện kiểu này cũng được hiện diện trong các phân sở ở Lỗ Ma Ni hay ở Đông Đức.
Những người đảm trách công việc ám sát được chia làm hai loại:những đơn vị đặc biệt kiểu xung kích thuộc các phân sở hoạt động ở trong khối cộng sản và ngoài nước; một loại điệp viên người nước ngoài được tuyển dụng để hoạt động trong đất tổ của họ, Một ví dụ như lực lượng quân sự cuả đảng CS Tây Đ ức trong đó có hăng trăm người đã được huấn luyện về khủng bố và ám sát chánh trị!
Việc giải mật một phần các tài liệu của cộng sản đã cho phép thiết lập một danh mục dù chưa đầy đủ,các cuộc ám sát hay các dự định ám sát kể từ 1917.
Trong thời kỳ ổn định của chế độ cộng sản,ngoài việc thanh trừng trong nội bộ đảng,người ta còn tìm thấy việc bắt cóc các tướng của bạch quân tại Paris trong những năm 30,nhưng trước hơn hết là việc ám sát Leon Trotsky vào tháng 8 năm 1940 tại Mễ Tây Cơ bởi một điệp viên của Staline là Ramon Mercader. Những người trốt-kít vẫn sẽ là mục tiêu ưu tiên của các phân sở cộng sản đã đuổi tận giết tuyệt cho đến khoảng đầu thập niên 50.
Kể từ 1945, sau khi có nhiều nước bị đặt dưới sự kiểm soát của cộng sản,một phần giới trí thức đã bỏ chạy và tổ chức những phong trào đối kháng quốc gia như ở Ukraine với cuộc chiến của các thân binh (partisan) hay quốc tệ tạo lập khối các quốc gia antibolchévique. Các ban lãnh-đạo cộng sản lúc đó ra lệnh thanh toán những phe đối lập Ví dụ nhu.vào năm 1947,Kroutchev ra lệnh ám sát Tổng Giám Mục của Giáo Hội Hợp Nhất Ukraine, ông này chết vì bị chích chất curare. Vào tháng 10/1957, Lev Rebet, rồi đến 10/1959,Stefan Bandera, thủ lãnh kháng chiến người Ukraine đều đã bị thanh toán ở Cộng Hoà Liên Bang Đức (RFA hay Tây Đức) bằng súng bắn chất cyanure do phòng thí nghiệm n°12 chế tạo. Một trường hợp ám sát khác được biết là việc xử dụng một chiếc dù chích chất ricine vào một người chống đối gốc Bảo gia Lợi Georgi Markov ngày 7 tháng 9 năm 1978. Một dự định ám sát có tính cách lịch sử. Vào năm 1981,Leonid Brejnev ra lệnh ám sát giáo Hoàng Jean Paul II, mà ông ta biết quá rõ là có quyết tâm chống cộng. Lúc đó GRU,sở tình báo quân sự của Liên Sô được giao cho việc trù liệu một hoạt động phối hợp với Stasị phản tuyên truyền, và với phân sở Bảo gia lợị hành động Ngày 13 tháng 5 năm 1981,người Thổ Mehmet Ali Agca bắn vào Giáo Hoàng và đã làm ông này bị thương nặng!
Các ban lãnh đạo Cộng sản,như trường hợp Cộng Hoà Dân Chủ Đức (RDA:Đông Đức) đã tìm cách thanh toán một cách có hệ thống các kẻ phản bội và các tay chiêu hồi .Các hồ sơ cho thấy nhiều trường hợp trong những năm 1950 và 60, trong số đó có “những biện pháp tích cực” nhằm chống lại hạ sĩ quan đào ngũ Rudi Thurow;những biện pháp dùng để chống lại người “tổ chức trốn” (passeur) Wolfgang Welsch và gia đình ông ta đã bị đầu độc,và cuối cùng vào những năm 80,việc thanh trừng cầu thủ của BFC Dynamo và thành viên của đội túc cầu R.D.A đã đào thoát sang Tây Đức.
Một cách cơ bản,chủ nghĩa khủng bố của người cộng sản được các quốc gia như Liên Sô hay Trung Cộng hỗ trợ không có mục đích tiên quyết là truyền bá chủ nghĩa mác-xít lê-ninh-nít.Các phong trào khủng bố trước hết là một bộ máy chiến tranh nhằm chống lại phe tư bản,điều này giải thích có những sự hỗ trợ quốc gia đa hình đa dạng cho các phong trào khủng bố cộng sản mà còn cả cho các phong trào quốc gia,phong trào sắc tộc,cực hữu. Mục tiêu là làm suy yếu kẻ thù tư bản bằng cách áp dụng “một cuộc chiến tranh nóng” trong một khung cảnh giới hạn và thiết lập một tương quan lực lương thuận lợi trên bình diện quốc tế cho “các thế lực tiến-bộ”. Chiến lược xữ dụng và thi hành chủ nghiã khủng bố đặt trên các yếu tố địa phương trong những quốc gia liên hệ (phong-trào cộng sản có tổ chức,chủ nghĩa quốc gia cách mạng,căng thẳng chủng tộc,độc tài chánh trị )..Bên cạnh “khốỉ” nhà nước này , sau khi có sự tan rã của cộng sản Liên sô và sau khi Mao chết, đã biến mất một phần lớn, người ta đã thấy đủ các hình thức khủng bố bắt nguồn từ chủ nghĩa mác-xít qua thiên hình vạn trạng cho tới ngày hôm nay,từ khủng bố chánh trị tới du-kích (ví dụ như maoít ở Népal,PKK-Kadex của dân kurde,FARC ở Colombie,Con Đường Sáng ở Pérou…)
Trên bình diện thời-biểu,người ta nhận thấy từ đầu những năm 60,có sự tăng cường trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế của khủng bố chánh trị và du kích,kéo dài cho đến đầu những năm 80. Giai đoạn này có nét đặc biệt vừa bằng sự hợp tác giữa những phong trào cộng sản và chống đế quốc khác nhau,nhưng cũng còn bởi sự dấn thân của Trung Hoa,Liên Sô và các chư hầu chánh trị,đặc biệt là Cuba.Sự việc này dưới hình thái tài chánh,yểm trợ tiếp liệu về vũ khí và vật dụng đủ loại,việc chuyển tin,huấn luyện cán bộ trong các trại huấn luyện và cũng cả việc hội nhập các quân nhân hiện dịch vào trong các nhóm khủng bố. Từ 1969 đến 1977,các binh đoàn Venceremos đã được quân đội và mật vụ cuba huấn luyện,được KGB kín đáo điều khiển nhằm thực hiện các hoạt động du-kích ở Mỹ Châu. Người ta lương định có đến 2500 quân du kích là do Cuba huấn luyện.Trong những năm 70, Liên Sô và Trung Cộng đã cung cấp ào ạt vũ khí và đạn dược cho những phong trào khủng bố chánh trị,cho du kích và quân giải phóng.Liên Sô trước tiên đã tán trang lại các vũ khí của quân Mỹ bỏ lại ở chiến trường Việt Nam,sau đó cung cấp các vũ khí chế tạo ở Đông Âu.Lybie cũng là một nhà cung cấp vũ khí quan trọng trên thị trường quốc tế và phân phối cho mãi đến tân năm 80 như trường IRA chẳng hạn. Những cuộc hội thảo quốc tế để phối hợp được thực hiện đều đặn,được biết nhiều nhất là cuộchội thảo Tam Lục Địa ở La Havane vào tháng giêng 1966.Trong dịp này,Che Guerava đã phát biểu trước đại diện 83 phong trào khủng bố khẩu hiệu “Hai hay Ba Việt Nam trên mặt địa cầu” đã là nguồn hứng khởi trong suốt hai thập niên cuộc chiến võ trang cộng sản,đặc biệt là ở châu Mỹ La Tinh.Kể từ những năm 70,Liên Sô và Cuba đã bỏ cách gặp gỡ này thay vào đó bằng một sự quản lý kín đáo bởi quân đội và những sở khủng bố mật vụ.
Trong năm 2007,Cuba vẫn còn nằm trong danh sách của Mỹ về những nước hỗ trợ cho khủng bố quốc tế, nhưng kể từ khi Liên Sô bị sụp đổ,nước này gặp một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng và xem chừng đã ngừng viện trợ tài chánh và tiếp liệu cho khủng bố.Các trung tâm huấn luyện đã được đóng cửa và không còn quân cuba chiến đấu ở ngoài nước.Việc hiện diện các văn phòng đại diện của Lực Lượng Quân Sự Cách Mạng Colombie (FARC) và quân đội giải phóng Colombie (ALN) trên đất Cuba dù sao cũng còn là vấn đề.
Lybie là một trong các nước bảo trợ (bố già) của khủng bố quốc tế, điều này nhân danh xã hội chủ nghĩa hồi giáo và cuộc chiến chống đế quốc tây phương.Bằng cách phối hợp rộng rãi các hoạt động với những phân sở cộng sản,nước này đã cung cấp không phải chỉ là tài chánh mà còn cả tiếp liệu cho hơn 30 phong trào du kích và khủng bố trên khắp thế giới,dù là mác-xít hay không.Trong số này có ASALA,ARJ,PARA,MILF,MRTA,nhiều nhóm của FPLP,ETA và Hamas.Cuộc không tập của Hoa Kỳ vào Tripoli năm 1986 đã khiến đại-tá Kaddafi từ bỏ dần dần việc yểm trợ cho khủng bố. Liên Sô đã huấn luyện cho nhiều thế hệ khủng bố người Palestine từ 1974 đến 1980 trong các trại đặt tại Trung Á,Ukraine và Mạc Tư Khoa..Cộng Hoà Dân Chủ Đức đã huấn luyện về phần họ khoảng 200 quân Palestine một năm,ở Yougoslavie và Roumanie khoảng vài chục người.Nhiều người Phi Châu cũng được huấn luyện ở Cuba và ở Liên Sô. Đông Đức cũng lãnh trách nhiệm cho một phần còn lại của Arnée Rouge hiến một căn cứ triệt thoái cho các chiến đấu quân của RAF cung cấp cho họ vũ khí,tiền bạc và tin tức. Stasi cũng giúp cho các chi bộ cộng sản chiến đấu ở Bỉ trong những hoạt động tấn công chống lại OTAN (Minh Ước Bắc Đại Tây Dương.
Tài Liệu Tham Khảo: Tạp Chí ” Défense ” ( Quốc Phòng ) Số130 Novembre – Décembre 2007