Hoa Kỳ ngủ quên, Trung Quốc làm dậy sóng Biển Đông
Lời người post: Trong sự việc Trung Cộng đem tàu hải cánh hộ tống tàu khảo sát Hải Dương 8 vào vùng Bãi Tư Chính, trắng trợn xâm chủ quyền Việt Nam, mậc dù Bộ Ngoại Giao, cố vấn an ninh quốc gia và lưỡng viện Quốc Hội Hoa kỳ có lên tiếng phản đối và đòi Trung Cộng rút ra khỏi Bãi tư Chính nhưng các nhà phân tích tình hình quốc tế, đặc biệt là Hoa Kỳ chưa thoả mãn với những hành động của Mỹ vừa rồi, cho Mỹ ngủ quên thì Trung Cộng theo thời gian sẽ làm chủ Biển Đông, những phân tích như sau:
Những đám mây đen tiếp tục đè nặng lên chân trời Biển Đông, do những hành động khiêu khích của Trung Cộng tại các địa điểm khai thác dầu khí. Cùng với việc đàn áp người biểu tình Hồng Kông gần đây, nhiều nhà quan sát đã phải thốt lên câu dự báo thời tiết vốn dành cho người đi biển: “Ráng đỏ vào lúc bình minh, cần cảnh giác !” (ý nói người đi biển khi có ráng đỏ vào lúc bình minh thì trời sẽ giông bảo, cần cảnh giác)
Tháng trước, trong hội nghị về Biển Đông do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) tổ chức tại Washington DC, một số đại biểu đã gây chú ý khi nhấn mạnh vì sao cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Hoa Kỳ, cần phải lên tiếng về việc Trung Cộng xâm phạm khu vực khai thác dầu khí nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Bà Bonnie Glaser, giám đốc chương trình China Power, tuyên bố: “Nếu không đáp trả đối với các vụ vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), thì điều này chứng tỏ Bắc Kinh có thể vi phạm luật quốc tế mà không hề bị trừng phạt”.
Nhà báo độc lập James Borton trên trang Geopoliticalmonitor.com nhận định, Trung Cộng đã vi phạm UNCLOS, làm ngơ trước phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye cách đây ba năm. Bắc Kinh còn xây lên các đảo nhân tạo với tốc độ điên cuồng, chưa nói đến việc quân sự hóa quần đảo Trường Sa, ngang nhiên ban hành lệnh cấm đánh cá, liên tục hủy hoại sinh thái nơi các rạn san hô. Rõ ràng có một thực tế đau lòng: hồi kết của trò chơi này là Bắc Kinh hoàn toàn kiểm soát Biển Đông.
Trên bề mặt, các nhà hoạch định chính sách Mỹ chứng kiến một trận cuồng phong địa chính trị, giống như một cơn bão tố di chuyển rất nhanh, trải dài trên khắp Biển Đông. Các biện pháp ngoại giao mềm dẻo do Việt Nam và Trung Cộng cùng thực hiện hồi đầu năm, trong đó có việc tuần duyên của đôi bên cùng tuần tra chung trên Vịnh Bắc Việt, hay hai chiến hạm của Việt Nam tham gia một cuộc biểu dương lực lượng trên biển nhân kỷ niệm 70 năm ngày thành lập hải quân Trung Cộng, nay đã bị lu mờ trước tham vọng của Bắc Kinh và yêu sách về nguồn lợi dầu khí ở Biển Đông, đi kèm với vũ lực.
Tác giả phàn nàn, trong khi Trung Cộng tiếp tục phản đối các hoạt động hợp pháp của Hải quân Hoa Kỳ nhằm bảo vệ quyền tự do hàng hải trên Biển Đông, thì Toà Bạch Ốc lại có quan điểm ôn hòa trước các hành động quấy nhiễu của Bắc Kinh.
Bất kể có bao nhiêu ngư dân Việt Nam hay Philippines đã thiệt mạng trên biển khơi, do dân quân biển Trung Cộng tấn công vào những chiếc tàu đánh cá truyền thống của họ, Washington vẫn không quan tâm, một khi không đụng đến lợi ích quốc gia của Mỹ.
Thế nên đương nhiên là dự luật trừng phạt về Biển Đông và Biển Hoa Đông do hai thượng nghị sĩ Marco Rubio (Cộng Hòa) và Ben Cardin (Dân Chủ) chủ trì, đã không được thông qua ở Ủy Ban Đối ngoại và hiện nay vẫn còn nằm tại Thượng Viện. Dự luật lưỡng đảng này nhằm trừng phạt chế độ Bắc Kinh do những hành động phi pháp của họ, khi yêu sách chủ quyền ở vùng biển xa tắp mù khơi đối với đất liền của Trung Cộng.
Chắc chắn là Trung Cộng cần phải là một bên liên quan có trách nhiệm trong khu vực tranh chấp, nhưng Mỹ cũng thế. Một chiếc tàu thăm dò địa chất của Trung Cộng xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gây ra cuộc đối đầu kéo dài cả tháng qua, đã rời đi vào ngày 7/8, nhưng nay lại tái xuất hiện trong vùng biển Việt Nam.
Lời đáp của Mỹ trên Biển Đông
Nhà báo James Borton đặt vấn đề, Biển Đông không phải là nhân tố trung tâm mang tính chiến lược trong tổng thể quan hệ Mỹ-Trung, mà xung đột nằm ở chỗ mất cân bằng thương mại và đánh cắp sở hữu trí tuệ. Nhưng còn liên minh quốc phòng với Philippines và việc hỗ trợ cho yêu sách chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa thì sao?
Kori Schake, phó giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, viết trên tạp chí Foreign Affairs: “Hoa Kỳ né tránh thách thức bằng cách đặt lại vấn đề quan hệ liên minh”.
Về sự kiện tại bãi Tư Chính, cho dù không đứng về phía một quốc gia ven biển nào, bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ vẫn nhấn mạnh rằng: “Các hành động khiêu khích lặp đi lặp lại của Trung Cộng nhắm vào việc khai thác dầu khí trên biển đe dọa an ninh năng lượng của khu vực, làm phương hại đến thị trường năng lượng của Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở”.
Việt Nam, một đối tác của Mỹ, cần nhắc nhở Washington là áp lực của Bắc Kinh đã khiến Hà Nội phải ngưng một dự án khí đốt hợp tác với công ty Repsol của Tây Ban Nha, ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hiện nay việc Trung Cộng hà hiếp Việt Nam và các nước đòi hỏi chủ quyền khác vẫn chưa thấy có dấu hiệu giảm bớt.
Khi Việt Nam đảm nhiệm vai trò chủ tịch luân phiên ASEAN vào năm 2020, có lẽ các nhà hoạch định chính sách Mỹ cần nghĩ đến việc thành lập một đội ngũ về chính sách khai thác đại dương cùng với ASEAN và Trung Cộng, để lập ra một khu vực chung (JDA) tại quần đảo Trường Sa nhằm khai thác tài nguyên.
Trong khi Hải quân Mỹ đưa chiến hạm tiếp tục các chuyến tuần tra vì tự do hàng hải (FONOP), chính quyền Trump vẫn duy trì sự trung lập trong tất cả các tranh chấp lãnh thổ. Theo tác giả bài viết, Washington cần đóng vai trò giúp ổn định Biển Đông, do Trung Cộng luôn tìm cách áp đặt độc quyền kiểm soát tại khu vực và xa hơn nữa. Một số thành viên của Ủy ban Đối ngoại nhìn nhận là nếu không hành động gì, Trung Cộng sẽ hoàn tất việc thống trị về quân sự và chính trị trong khu vực.
Ông Anders Corr, thuộc Corr Analytics tin rằng tình hình hiện nay trên Biển Đông là cơ hội tuyệt vời cho Washington để bảo vệ nguyên tắc liên quan đến vùng đặc quyền kinh tế, kéo Việt Nam ra xa khỏi Trung Cộng và xích lại gần Hoa Kỳ hơn, từ chối cho Trung Cộng tiếp cận nguồn dầu khí.
Các mỏ dầu khí rất quan trọng đối với Việt Nam vì cung cấp đến 10% nhu cầu năng lượng, và Hà Nội nhận ra rằng nếu Rosneft rút lui, thì Exxon cũng có thể hành động tương tự đối với dự án Cá Voi Xanh.
Theo nhà sinh thái Garrett Hardin, khi các quốc gia khai thác nguồn lợi chung một cách thái quá khiến cung vượt cầu, làm cho một số hay tất cả những nước khác không còn có thể thụ hưởng nguồn lợi thiên nhiên này, thì đó sẽ là bi kịch. Kịch bản này có thể sắp diễn ra ở Bắc Cực, và đó là lý do vì sao Hoa Kỳ được thúc giục phê chuẩn UNCLOS càng sớm càng tốt, dù muộn còn hơn không.
Trước việc vùng Bắc Cực ngày càng được mở rộng cho phát triển kinh tế và quân sự, theo ông Joe Courtney, chủ tịch tiểu ban Hải lực và Lực lượng can thiệp trực thuộc Ủy ban Quân vụ Hạ Viện, “Hoa Kỳ không còn nhiều thì giờ để mất, nếu muốn đề cập đến các thảo luận trong tương lai một cách danh chính ngôn thuận, trên cơ sở đã phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển”.
Trong lúc Toà Bạch Ốc hiện nay còn vô số vấn đề phải giải quyết, đây là cơ hội để đào sâu mối quan hệ Mỹ-Trung. Thời gian qua chính quyền Trump có những tuyên bố rất cứng rắn, nhưng hành động thì lại không tương xứng. Các Chuyên viên về chính trị chỉ trích Washington, cho rằng không nên loan báo các chính sách có ảnh hưởng đến uy tín, mà lại không sẵn sàng bảo đảm.
Tác giả James Borton kết luận, động thái khởi đầu tốt nhất là Quốc Hội Hoa Kỳ phê chuẩn UNCLOS, và thông qua dự luật trừng phạt về Biển Đông.
Theo Thuỵ My (RFI)