40 năm tìm chồng!
Lời người post: Người chồng bị lính Cộng Sản bắn chết khi vượt trại tù cải tạo ở Đồng Ban, tỉnh Tây Ninh vào năm 1977. Người vợ vẫn tin chồng mình mất tích đâu đó lăn lội tìm chồng 40 năm. Đến năm 2017 bà vợ từ Việt Nam đến California, Hoa Kỳ để tận tai nghe người bạn tù chôn xác chồng mình kể lại. Câu chuyện có thật như một nhát dao đâm vào tâm can những ai thất trận trước những kẻ chiến thắng vô nhân tính. Chuyện kể của bà Bùi Thiện Hường vợ của Trung Uý Biệt Động Quân Đỗ Văn Điền xuất thân khoá 25 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
***
Sau 40 năm lặn lội tìm chồng ở Việt Nam từ năm 1977, một phụ nữ gặp được người bạn tù của chồng tại Mỹ, xác nhận đã chôn xác chồng bà, sau khi ông bị bắn chết trên đường vượt ngục tù Cộng Sản. Người phụ nữ tìm chồng là bà Bùi Thiện Hường, sinh quán miền Nam Việt Nam. Chồng bà, Trung Uý VNCH Đỗ Văn Điền, là sĩ quan xuất thân khóa 25 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, năm nay nếu ông Điềm còn sống, cũng đã ngoài 70 tuổi.
Cuối Tháng Tám năm 2017, bà Hường từ Việt Nam sang Mỹ, đến thành phố Westminster, California, để gặp những người bạn tù của chồng. Bà được ông Huỳnh Công Kỉnh, người bạn cùng khóa 25 ở trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt của ông Điền, giới thiệu bà Hường đến gặp ông Nguyễn Xuân Trường, người biết chuyện và xác định chồng bà còn sống hay đã chết.
Theo lời ông Kỉnh, sau khi ra trường cuối năm 1971, sáu người thuộc khóa 25 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt cùng 26 sĩ quan khác từ quân đội được chọn du học Mỹ vào năm 1973 để khi tốt ngiệp Master (Phó Tiến Sĩ) về làm giáo sư dạy văn hoá tại trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
Tại nhà của ông Nguyễn Xuân Trường ở Nam California chiều hôm ấy, ngoài ông Kỉnh còn có ông Huỳnh Văn Đức, cũng là người bạn đồng khóa 25 của ông Điền ở Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Ông Trường cùng vợ làm cơm đãi khách, khi ngồi vào bàn ông chậm rãi kể đầu đuôi câu chuyện.
Lấy bình tỉnh bằng một hớp rượu nóng rồi ông Trường bắt đầu: “Tôi và Điền là bạn học Trung Học ở trường Chu Văn An. Chúng tôi gặp lại nhau khi đợi ở Bộ Tổng Tham Mưu để du học Mỹ. Khi ấy tôi mang cấp Đại Úy và hai người bạn đồng nhiệm tại Bộ Tổng Tham Mưu cùng 26 sĩ quan khác cũng chuẩn bị học Anh ngữ để du học Hoa Kỳ”.
“Không ngờ ba tháng sau, Mỹ hủy bỏ chương trình du học ấy. Anh Đỗ Văn Điền ra binh chủng Biệt Động Quân. Chúng tôi mất liên lạc nhau sau ngày 30/04/1975. Nhưng tôi gặp lại Điền trong trại tù ở Long Giao. Sau chúng tôi được chuyển về Kà Tum, thuộc trại L6T6 ở Đồng Ban, cách biên giới Campuchia khoảng hai cây số, và lại bặt tin Điền từ ngày ấy”.
Ông TRường cũng cho biết sau đó biết được ông Kỉnh cũng ở cùng trại: “Ông Kỉnh lo việc hớt tóc, còn tôi là anh nuôi, lo việc nấu cơm. Những người tù khác thì mỗi sáng đi làm rừng”.
Ông kể một hôm ông thấy ba người đi làm rừng, một người đàn ông trông giống Điền, ông liền gọi tên.
– “Đừng gọi tên tao!” người đàn ông đáp.
Sau đó, một trong hai người đi cùng ông Điền chạy lại nói nhỏ với ông Trường:
– “Niên trưởng (họ tưởng ông Trường cũng là Sĩ Quan Võ Bị nên họ xưng hô như thế), tụi tôi là khóa 28, trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt khoá đàn em ông Điền. Ông ấy nói tôi tới xin niên trưởng một ít cơm cháy. Chúng tôi dự tính vượt ngục”.
Ông kể hôm ấy ông từ trại đi qua khỏi bìa rừng: “Tôi nhớ là tôi chỉ gom được khoảng nửa lon Guigoz cơm cháy nhưng bẵng đi cả tháng sau, không còn thấy ba người này ra nữa!”
– “Sau đó, nghe tin có người Sĩ Quan Võ Bị bị bắn chết, tôi nghĩ ngay đến Điền và hai người khóa đàn em, chắc họ vượt ngục như cho tôi biết từ trước,”
Ông kể tiếp,
– “Tôi nhớ hôm sau, chúng tôi được bộ đội Việt Cộng gọi đi sớm. Chừng 5 giờ sáng là vác gánh đi chợ, ai ngờ lần này được lệnh đi chôn xác tù vượt ngục. Tới trước cổng làng, tôi lật tấm chiếu phủ xác hai người, nhận ngay ra là Điền!”.
Ông Trường tâm sự:
– “Là người Công Giáo, tôi làm dấu thánh giá phía đầu người bạn, rồi vuốt mắt cho Điền. Mắt Điền nhắm, tôi lấy tấm chiếu phủ xác người bạn tù trong khi dân làng đứng xem. Họ cho sợi dây để buộc chiếu lại.”
– “Hai người khiêng một xác của người quá cố, chúng tôi đi qua dãy cầu tiêu được lập nên để làm phân xanh, trước giao thông hào, rồi kiếm chỗ để chôn,”
Ông Trường kể thêm.
– Một người đề nghị chôn chỗ đất cát để dễ đào, nhưng ông Trường không chịu.
– “Chúng tôi dừng lại và chọn chôn giữa hai cây to, để sau này thân nhân tìm xác có cây làm cái mốc, dễ tìm”, ông nói trong không khí nặng trĩu, dù mọi người đang ngồi sân sau nhà, ngoài trời.
Sau đó ông chuyển trại, gặp lại ông Kỉnh.
Câu chuyện sau 40 năm do ông Trường kể lại làm bà Bùi Thiện Hường khóc òa, khiến mọi người không cầm được nước mắt.
Ông Trường, nước mắt long lanh, như nói với người bạn tù đã khuất:
– “Trước sự mất mát này, Điền ơi, mày có linh thiêng, là bạn, mày dù ở nơi nào, tao cũng luôn nhớ tới mày. Vợ mày nhờ tao vẽ bản đồ con đường để đi tìm mày. Rồi mai đây mày cũng sẽ gặp tao. Tao mủi lòng, và đó là những lời tâm huyết. Trước mặt vợ mày, tao mong bà ấy hãy để nhưng gì đã qua, qua đi.”
– “Anh em mình nâng ly, uống cho nó một ly đi!”, ông Trường đề nghị.
Đoạn, ông nhìn về bà Điền đang được vợ ông an ủi, ông nói:
– “Tôi xin đại diện anh em, chúc chị bình an với cuộc sống hiện tại. Đừng bận tâm tìm kiếm nữa làm gì. Chính tôi từng về đứng trước Bộ Tổng Tham Mưu ngày xưa mà còn không nhận ra. Khi xưa thăm nuôi vợ tôi chỉ biết đường từ Sài Gòn đến bìa rừng, rồi phải mướn xe trâu, xe be hay cán bộ giao liên chỉ đường mới gặp được tôi.”
Nghe xong câu chuyện, ông Huỳnh Văn Đức góp ý:
– “Tôi nhớ có lần tôi về Việt Nam, bà Hường nhờ tôi chở bà đi Bình Thuận tìm chồng. Lại nhớ khi xưa còn ở tù cải tạo chúng tôi thường đợi xe lửa chạy ngang, người dân đi cúng trên tàu, có người đạp nguyên con heo xuống cho những người tù chúng tôi.”
– “Tìm được gì thì tìm, nhưng theo tôi nếu Điền linh thiêng, nó sẽ giúp các con của chị tìm, vì mình lớn tuổi, sức đâu mà lặn lội,” ông Đức nói.
Ông Huỳnh Công Kỉnh khuyên:
– “Chị nên an phận, các cháu rồi sẽ tìm. Bây giờ, bạn bè của Điền là niềm an ủi cho các cháu, Không tìm được đâu. Nếu chúng ta tin có thế giới siêu hình, ngồi lại với nhau là quý. Nên coi đây là những người bạn thân của Điền. Chị hãy quên đi. Bay nửa vòng trái đất qua đây để nghe chuyện thật rồi.”
– Tôi biết mấy đứa con chị tha thiết tìm ba chúng nó những lần chị kể chúng nó nói “chúng con thèm ba” ông Kỉnh nói thêm.
Bà Hường sau khi nghe, sụt sùi nhưng vẫn cố gắng hỏi xem ông Trường có nhớ vị trí chôn chồng bà hay không:
– “Cứ mỗi lần nghe tin anh ấy mất tích tôi cũng nghĩ là anh ấy còn sống, cho dù anh ấy mất trí hay tật nguyền.”
– “Hằng năm tôi cứ lấy ngày sinh nhật anh ấy làm ngày giỗ cho anh,” bà Hường nói thêm.
Ông Trường đề nghị:
– “Theo tôi, để gần chính xác, chị nên lấy cái mốc lần thăm nuôi cuối cùng vào đầu năm 1977, ông ấy nhắn chị lên Đồng Ban thăm ngày tháng nào, rồi cộng thêm một tháng rưỡi, sau đó là ngày anh ấy mất. Nếu chị cho phép và các bạn đồng ý, chúng tôi sẵn sàng làm giỗ cho Điền mỗi năm ở nhà tôi và cầu siêu cho nó.”
Bà Bùi Thiện Hường sau đó trở về Việt Nam, đem theo đoạn băng thu âm những lời kể của một nhân chứng, một bạn tù.
“Tôi đã mất anh thật rồi sao!”, bà thảng thốt nói sau khi nghe sự thật suốt 40 năm bà tìm kiếm.