Di chúc của những nhân vật không Cộng Sản trái ngược với Cộng Sản như thế nào?

Lời người post:

1) Tôn Dật Tiên (1866-1925): tên Tôn Văn, tự là Tải Chi, hiệu Nhật Tân, Dật Tiên nên gọi là Tôn Dật Tiên. Suốt đời bôn ba ở hải ngoại để lật đổ chế độ phong kiến Nhà Thanh của Mãn Châu. Tôn Dật Tiên sáng lập ra Trung Hoa Quốc Dân Đảng và là người đóng vai trò chủ chốt trong cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ chế độ phong kiến Mãn Thanh xây dựng một nước dân chủ ở Trung Hoa.
2) Tưởng giới Thạch (1887-1975): Tên Tưởng Trung Chính, tên chữ là Giới Thạch nên thường gọi là Tưởng Giới Thạch, học trò của Tôn Dật Tiên. Kế vị lãnh đạo của Trung Hoa Quốc Dân Đảng từ năm 1928-1975. Lúc đầu ở Trung Hoa Lục Địa (1928-1949) đánh với Cộng Sản Mao Trạch Đông và chống quân Nhật xâm lược. Năm 1949 ông bị Cộng Sản Mao đánh bại phải di tản ra đảo Đài Loan năm 1949 và thành lập Trung Hoa Dân Quốc tại quốc đảo này.
3) Mao Trạch Đông (1893-1976): Lãnh tụ Cộng Sản Trung Hoa, theo chủ nghĩa Cộng sản Mác-Lê sau này đảng Cộng Sản Tàu thêm vào tư tưởng Mao. Cộng Sản Mao chiến thắng Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch năm 1949 và thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ở Trung Hoa Lục Địa chúng ta thường gọi là Trung Cộng.

4) Hồ Chí Minh (1890-1969): Theo đảng Cộng Sản Mác-Lê-Mao, nghĩa là người được Cộng Sản Mác-Lê đào tạo hàng thập niên và sau này tôn Mao làm thầy về “tư tưởng Mao”. Người Việt quốc gia cho Hồ Chí Minh là tội đồ dân tộc. Với dân tộc và tổ quốc Việt Nam Hồ Chí Minh có hai cái tội to lớn chưa từng thấy trong lịch sử:
– Thứ nhất là ký hiệp định Genève chia đôi đất nước ở vĩ tuyến 17, khác gì chặt thân mệnh mẹ Việt Nam làm hai, sau đó tiến hành xâm lược miền Nam gây nên chết chóc hàng triệu sinh linh…
– Thứ hai là du nhập chế độ ngoại lai cộng sản man rợ vào Việt Nam.

Con người trước khi chết thường kêu lên tiếng vọng từ đáy lòng. Chúng hãy nghe 4 người trên trăn trối khi chết như thế nào nhé:

Tôn Dật Tiên (1866-1925)

Tôn Dật Tiên: Ngày 11/3/1925, khi ông Tôn Dật Tiên sắp trút hơi thở cuối cùng. Lúc đó, bà Tống Khánh Linh [vợ ông] đỡ cánh tay run rẩy của ông Tôn Dật Tiên để ký tên vào “Di chúc chính trị” và “Di chúc gia sự”. Trong cùng ngày này, ông còn ký một bản di chúc gửi Liên Xô.
“Di chúc chính trị” của ông viết rằng: “Sau khi dốc hết sức cho cách mạng quốc dân, trải qua 40 năm, mục đích là để cứu sự tự do bình đẳng của Trung Hoa. Tích lũy 40 năm kinh nghiệm, hiểu rõ rằng đạt được mục đích này, cần phải kêu gọi dân chúng liên hợp cùng thế giới đối đãi bình đẳng với dân tộc chúng ta, cùng phấn đấu …”
Trong lúc hấp hối, ông Tôn Dật Tiên dùng tiếng nói nhỏ bé thoi thóp để nói: “Hòa bình… phấn đấu … cứu Trung Hoa”. Đến 9 giờ 30 ngày 11/3/1925, nhà cách mạng Tôn Dật Tiên đã trút hơi thở cuối cùng, thọ 58 tuổi.

Sáng ngày 19/3/1925, tại Lễ đường của Bệnh viện Hiệp Hòa Bắc Kinh, bà Tống Khánh Linh và ông Tôn Khoa đã chiếu theo nghi thức Cơ Đốc Giáo tổ chức tang lễ gia đình cho ông Tôn Trung Sơn. Năm 19 tuổi, ông Tôn Trung Sơn được rửa tội và trở thành tín đồ Cơ Đốc Giáo. Trước lúc lâm chung, ông đã biểu thị rõ rằng, ông hy vọng mọi người biết ông qua đời như một người Cơ Đốc Giáo. Tang lễ do Linh mục kiêm Viện trưởng Bệnh viện Thần học thuộc Đại học Yên Kinh Lưu Diên Phương chủ toạ. Sau tang lễ, linh cữu của ông được đưa đến Đại điện Đàn Xã Tắc trong Công viên Trung Ương (Bắc Kinh).

Tưởng Giới Thạch (1887-1975)

Tưởng Giới Thạch: Di ngôn cuối cùng của Tưởng Giới Thạch: “Phản công Đại lục… giải cứu đồng bào… cứu Trung Quốc…”
Ông Tưởng Giới Thạch sau khi rơi vào trạng thái bán hôn mê tại “Nhà Khách Trung Hưng” ở Đài Loan, bác sĩ đi theo ông phát hiện miệng ông lẩm nhẩm nói gì đó, âm thanh nghe rất yếu ớt, nhưng do khẩu âm vùng Ninh Ba của ông khó hiểu, nên bác sĩ đã mời phó trực ban cùng quê với ông Tưởng là Ông Nguyên đến.

Ông Nguyên ghé sát tai vào miệng Tưởng Giới Thạch, nghe kỹ khoảng một hai phút rồi nói với bác sĩ, Tổng Thống nói: “Phản công Đại lục… giải cứu đồng bào… phản công Đại lục… giải cứu Trung Hoa… phản công Đại lục… giải cứu Trung Hoa…”
Phải chăng ông Tưởng Giới Thạch đã ý thức được sự ra đi của mình, nên đã nhắc đi nhắc lại câu nói yếu ớt đó để di ngôn cuối cùng?

Mao Trạch Đông (1893-1976)

Mao Trạch Đông: Lời cuối cùng của Mao Trạch Đông: “Tôi rất khó chịu, hãy gọi bác sĩ đến”.
7 giờ 10 phút sáng ngày 9/9/1976, Mao Trạch Đông bỗng nhiên hơi thở dồn dập. Khi sắp chết, ông đã yêu cầu y tá bên cạnh mình là cô Mạnh Khánh Vân đọc “Hận phú”, “Biệt phú”, “Khô thụ phú” nội dung chìm đắm trong bi tình như “Cành khô phân tán khắp cây này, nhìn không thấy chút sinh khí nào;… Nhưng vì sao cây quế lại chết khô, ngô đồng cũng tàn lụi?… Cây liễu trồng năm xưa, um tùm khả ái; giờ đây nhìn chúng khô héo tàn lụi, không khỏi khiến người ta đau thương. Trong thời gian ngắn ngủi, đã già không nhận ra nữa, con người sao có thể chịu nổi thúc giục của tuổi tác”. Mao nghe rồi ứa lệ, thều thào tâm tình một cách thê lương.
Mạnh Khánh Vân xoa bóp vùng đầu cho Mao hồi sinh đôi chút. Mao cất tiếng nói không ra hơi với Khánh Vân: “Tôi rất khó chịu, hãy gọi bác sĩ đến”, chứng tỏ kẻ ham sống sợ chết.

Hồ Chí minh (1980-1969)

Hồ Chí Minh: trong di chúc Hồ Chí Minh để lại năm 1969 viết: Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng [cộng sản] anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản. HCM khích động chém giết để cuộc chiến của Cộng Sản xâm lược miền Nam đến thắng lợi hoàn toàn. Di chúc còn mong khi chết được gặp Karl Marx và Lenin. Rõ ràng là một tên tay sai Cộng Sản được đào luyện từ trong trứng nước, giây phút cuối cùng vẫn mong được về với cộng sản.

Tổng hợp từ The Vision Times và Wikipedia

Sáng Lập Đảng

Nguyễn Thái Học người Sáng Lập Việt Nam Quốc Dân Đảng

Tìm Bài Theo Tháng

Tự Điển Hỏi Ngã Tiếng Việt