Tưởng niệm 43 năm nhà cách mạng Trần Văn Tuyên qua đời

Nhân ngày giỗ lần thứ 43, nhắc lại thân thế và sự nghiệp của nhà cách mạng Trần Văn Tuyên (26/10/1976 26/10/2019), Nhà báo Nguyễn Quốc Khải trong ban biên tập Ngày Nay và Vietnam Review hiện cư ngụ tại vùng Hoa Thịnh Đốn viết về cuộc đời của ông Tuyên trong bài dưới đây. 

  1. LS Trần Văn Tuyên: Người Suốt Đời Tranh Đấu Cho Tự Do, Dân Chủ Việt Nam.
  2. LS Trần Văn Tuyên, Một Con Người Đa Dạng, Nổi Tiếng Trong Nhiều Địa Hạt Từ Văn Nghệ, Giáo Dục, Thanh Niên Sang Đến Chính Trị
  3. Sự Liên Hệ Giữa Ông Tuyên Và Tướng Võ Nguyên Giáp Ra Sao?
  4. Giai Thoại Giữa Ông Tuyên Và Các Bạn Cũ Phía Bên Kia Ở Hội Nghị Genève 1954
  5. Ông Tuyên Đã Chết Trong Lao Tù Cộng Sản Ra Sao?

Trước ngày 30/4/1975, LS Tuyên dù có nhiều phương tiện để xuất ngoại đã chọn ở lại và ông đã chết trong trại tù Hà Tây (Bắc Việt) hôm 26/10/1976. Luật sư Trần Văn Tuyên có 7 người con hiện tất cả đều ở hải ngoại. Người con trưởng là LS Trần Tử Huyền, cũng là nhà báo Linh Chi hiện ở vùng Bắc California. Trưởng nữ là bà Trần Đạm Phương, được biết nhiều trong các cuộc tranh đấu cho nhân quyền Việt Nam cũng như cho sự tự do của thân phụ lúc ông bị giam giữ tại Việt Nam. Ba người con trai cuối, các ông Trần Tử Thanh, Trần Vọng Quốc (trên vùng Hoa Thịnh Đốn) và Trần Tử Miễn (ở Pháp) đang theo hướng đi của thân phụ, hoạt động chính trị và tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Nhà báo Trọng Kim, chủ nhiệm, chủ bút Ngày Nay cũng là người trong gia đình LS Tuyên, từng giúp ông Tuyên trong việc liên lạc với báo chí ngoại quốc từ đầu thập niên 60 tới lúc mất miền Nam.

Trong quá trình tranh đấu của dân tộc Việt Nam chống ngoại xâm, chống độc tài, phong kiến và bất công trong thời kỳ cận đại, có một nhà cách mạng trong hàng ngũ quốc gia mà ít sách báo nói đến một cách đầy đủ đó là cố LS Trần Văn Tuyên mà cách đây hơn một phần tư thế kỷ đã vĩnh viễn ra đi. Nhân ngày giỗ lần thứ 43 sắp tới, chúng ta nhắc lại thân thế và sự nghiệp của ông để tưởng nhớ đến một người đã một đời tranh đấu cho dân tộc trong một giai đoạn lịch sử đau thương đầy máu và nước mắt của đất nước mà các thế lực ngoại bang từ thực dân, quân phiệt, đến cộng sản quốc tế đã không ngừng xâu xé. Các cường quyền này đã lợi dụng sự dại dột, nông cạn và chia rẽ của chúng ta để giết hại chính chúng ta, cả ở hai miền Nam Bắc.

Hoạt Động Thanh Niên và Văn Hóa

LS Trần Văn Tuyên sanh ngày 01/09/1913 tại Tuyên Quang, tốt nghiệp trường Bưởi tại Hà nội vào khoảng 1930.

Ông là một học sinh xuất sắc thi đậu hai bằng trung học và tú tài cùng một năm. Trong thời gian học tại trường Bưởi, LS Tuyên đã đoạt giải nhất về cuộc thi hùng biện tiếng Pháp dành cho các học sinh trên toàn quốc.

Lúc đầu LS Tuyên dự định học ngành Y Khoa. Sau đó vì ngành này quá tốn kém, ông chuyển qua học trường Đại Học Luật Khoa tại Hà Nội và tốt nghiệp cử nhân Luật vào năm 1943. LS Tuyên tham gia phong trào Hướng Đạo (H.Đ.) từ năm 1931. Ba năm sau ông thành lập thiếu đoàn Đại La tại Hà Nội. Ông Bùi Diễm, cựu Đại Sứ của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tại Hoa Kỳ, đã gia nhập đơn vị này. LS Tuyên và ông Diễm từ đó đã trở thành đôi bạn tri kỷ. Cuộc đời của hai người tiếp tục gắn bó với nhau qua bao nhiêu biến cố của đất nước trong năm thập niên kế tiếp. Vào năm 1945, LS Tuyên cùng với các ông Mai Liệu, Phan Xuân Thiện, BS Nguyễn Tường Bách [1] thành lập Quốc Gia Thanh Niên Đoàn để chống lại thực dân Pháp và chủ nghĩa Cộng Sản. Ngoại trừ BS Nguyễn Tường Bách, những người lãnh đạo Quốc Gia Thanh Niên Đoàn đều là các cựu huynh trưởng H.Đ. Vào ngày 12/06/1945, LS Tuyên giữ chức giám đốc trường Huấn Luyện Đoàn Trưởng Thanh Niên Xã Hội Miền Bắc [2].

LS Trần Văn Tuyên là một trong những sáng lập viên của phong trào truyền bá quốc ngữ và Hội Bình Dân Giáo Dục vào thập niên 30 để giảm thiểu nạn mù chữ, nâng cao trình độ văn hóa, ý thức dân chủ, hiểu biết về quyền công dân của một nước độc lập, chống lại một nền giáo dục nô lệ mà “chế độ thực dân muốn giới hạn tối đa cho một vài thành phần ân sủng” [3]. LS Tuyên là giáo sư dậy về Việt Văn, Pháp văn và toán tại trường trung học tư thục Văn Lang và Thăng Long tại Hà Nội cùng với một số đồng nghiệp như Võ Nguyên Giáp, Hoàng Minh Giám, Phan Anh, Phan Mỹ và Đặng Thai Mai. LS Trần Văn Tuyên mở văn phòng luật sư tại Saigon cùng với hai đồng nghiệp Vũ Văn Huyền và Nguyễn Văn Huệ vào năm 1957. Ông là một trong những sáng lập viên vào năm 1958 của hội Bách Khoa Tự Điển cùng với các ông Đào Văn Tập và Đào Đăng Vỹ. Nhóm này được mệnh danh là Nhóm Bách Khoa Tự Điển Nguyễn Du. Ngoài việc hành nghề luật sư, LS Tuyên còn giảng dậy tại các trường đại học Đà Lạt, Huế, Vạn Hạnh, Chiến Tranh Chính Trị và Cao Đẳng Quốc Phòng từ năm 1965 trở về sau.

Tác phẩm văn chương đầu tay của LS Tuyên là cuốn tiểu thuyết “Hiu Quạnh” xuất bản năm 1944. Sau đó là cuốn tiểu luận “Đế Quốc Đỏ” (1957), tùy bút “Tỉnh Mộng” (1957), Hồi Ký Hội Nghị Genève (1954, 1964), tiểu luận “Chánh Đảng” (1967), tập truyện ngắn “Người Khách Lạ” (1968) [4]. Bản thảo “Khổng Tử ” dịch từ tiếng Trung Hoa bị chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm tịch thâu vào năm 1960 rồi mất luôn. Ngoài ra LS Tuyên còn xuất bản hai cuốn sách “Lịch Sử Việt Nam” (1964) và “Cách Mạng Đi Về Đâu” (1967) nhưng không thấy ghi trong tạp khảo văn hóa “Việt Nam Gấm Hoa” của ông Thái Văn Kiểm. Trong các năm 1967, 1968, ông đã cho đăng trên nhật báo Quyết Tiến xuất bản tại Saigon nhiều bài nghiên cứu về tình hình kinh tế và chính trị của hai miền Bắc và Nam rút từ tập khảo luận nhan đề “Vận Mệnh Việt Nam”. Rất tiếc là trong số sách đã xuất bản, gia đình của LS Tuyên chỉ tìm lại được cuốn “Hồi Ký Hiệp Định Genève 1954” và tập truyện ngắn “Người Khách Lạ”. Lối hành văn của LS Tuyên trong các truyện ngắn này rất giản dị, nội dung mộc mạc, nhưng luôn luôn bao hàm một triết lý về lòng người và tình đời. Nếu tin rằng văn tức là người, thì khó mà hiểu được rằng qua bộ mặt nghiêm nghị của LS Tuyên, chúng ta có thể tìm thấy được hai con người vừa đơn giản vừa phức tạp. Đơn giản ở chỗ không đòi hỏi một đời sống vật chất xa hoa, nhưng quí trọng sự hồn nhiên trong sáng, tôn thờ di sản của tiền nhân, thiết tha yêu quê hương dân tộc, phức tạp ở chỗ muốn có một cái gì tuyệt đối về tinh thần.

“Và ngày ngày, mỗi buổi chiều, tôi tới vườn Diên Hồng ngồi đợi khách.
Nhưng Cách Mạng! Anh còn đây hay đã đi đâu?”.

Đây là hai câu cuối cùng của truyện ngắn “Người Khách Lạ” [5], viết xong vào ngày 30/10/1965, mở đầu cho tuyển tập mang cùng một nhan đề. LS Tuyên đi tìm một người khách lạ mang tên là Cách Mạng vào giữa thập niên 60. Người đó chỉ thấy hiện lên trong giấc mơ, mà không đến với mình trong thực tại.

LS. Trần Văn Tuyên bắt đầu sự nghiệp bằng nghề ký giả. Cùng với Võ Nguyên Giáp, LS Tuyên xuất bản tờ báo chui và in truyền đơn để chống lại chế độ thực dân. Bà vợ đầu tiên của ông là bà Trần Thị Phúc [6] giúp chồng phát hành tờ báo và đi giải truyền đơn trong thành phố Hà Nội [7]. LS Tuyên là người chủ xướng tờ báo Sao Trắng của Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) vào năm 1942. Sau này ông còn là một ký giả cộng tác với nhiều tờ báo trong nước như Thời Luận, Chính Luận, Quyết Tiến, Đại Dân Tộc, Tin Sáng, v.v. trong khoảng 1958-1975 dưới nhiều bút hiệu khác nhau: Chính Nghĩa, XYZ, Trần Côn, v.v. Trong thập niên 40, LS Tuyên còn dùng bút hiệu Trần Vĩnh Phúc. Ngoài tiếng mẹ đẻ, ông còn rất thông thạo một số ngoại ngữ như tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Quảng Đông và tiếng Quan Thoại. Ngoài các báo Việt ngữ, LS Tuyên còn viết bài cho một số báo Pháp là Le Monde, l’Express, France Asie, v.v.

Hoạt Động Chính Trị

Ông Thái Văn Kiểm trong cuốn Việt Nam Gấm Hoa đã viết trong bài Tưởng Niệm Liệt Sĩ Trần Văn Tuyên như sau:

“LS Trần Văn Tuyên đã hiên ngang đi vào lịch sử bằng cửa lớn. Người đã nêu cao tinh thần bất khuất của Nguyễn Thái Học. Người đã viết lịch sử với máu đỏ lòng son”. “Với kinh nghiệm bản thân, ông thấu hiểu thế nào là nghèo khổ, đói khát, thế nào là bất công xã hội, thế nào là áp bức, ngục tù. Vì những lý do đó mà ông đã hy sinh cả cuộc đời để tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ, Công Bằng Xã Hội và An Sinh cho dân tộc Việt Nam” [8].

Giai Đoạn Chống Pháp

LS Tuyên bắt đầu sự nghiệp chính trị với sự gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc) vào năm 1929 lúc 16 tuổi, một năm trước khi xẩy ra vụ khởi nghĩa Yên Báy. Ông tham gia cuộc tranh đấu dành độc lập cho đất nước cùng với những nhà cách mạng như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, bị mật vụ Pháp bắt bỏ tù vào năm 1943 vì tội phá rối trị an, hoạt động chính trị chống sự đô hộ của người Pháp. LS Tuyên tham chính lần đầu tiên với chức vụ Tri Huyện Hải Dương, Bắc Việt vào năm 1944. Khi có vụ tổng khởi nghĩa vào năm 1945, chính cán bộ thuộc Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh) đã mật báo cho ông biết trước để thoát khỏi một vụ mưu sát do Việt Minh chủ trương vì dân chúng trong huyện Thanh Miên, tỉnh Hải Dương và những người cán bộ này kính phục tài đức của ông. Đến năm 1946, LS Tuyên tham gia chính phủ liên hiệp do ông Hồ Chí Minh làm Thủ Tướng, với chức vụ Đổng Lý Văn Phòng Bộ Ngoại Giao do ông Nguyễn Tường Tam làm Bộ Trưởng. Một năm sau ông cùng với các lãnh tụ VNQDĐ khác như Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, v.v. trốn qua Trung Hoa vì Việt Minh chủ trương liên kết với chính quyền thực dân Pháp để diệt trừ các phần tử quốc gia. Ông Jean Sainteny, Cao Ủy Lâm Thời của chính quyền thực dân Pháp thời đó đã tiết lộ: “Hồ Chí Minh cần dựa vào sự giúp đỡ của nước Pháp một cách hiển nhiên để củng cố địa vị và diệt trừ các đảng đối lập” [9]. Sau khi Việt Minh rút ra khỏi Hà Nội, LS Tuyên trở về Việt Nam năm 1948, tiếp tục tranh đấu dành độc lập cho đất nước, tìm một giải pháp không cộng sản cho Việt Nam. Tiếp theo cuộc hội đàm giữa chính quyền thực dân Pháp và vua Bảo Đại tại Vịnh Hạ Long vào ngày 6/12/1947, LS Tuyên và ông Lưu Đức Trung được vua Bảo Đại lúc đó đang lưu trú ở Hồng Kông cử đi tiếp xúc với các nhân sĩ trong nước để thành lập một chính phủ quốc gia. LS Tuyên giữ chức vụ Tổng Trưởng Thông Tin vào năm 1949 trong nội các của Tướng Nguyễn Văn Xuân, sau đó tham gia vào nội các Trần Văn Hữu (1949 1951) với chức vụ Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng. Khi tham gia hội nghị Pau để thương lượng với chính quyền Pháp trao trả chủ quyền cho Việt Nam, LS Tuyên đã quyết liệt phản đối sự vi phạm trắng trợn các thỏa ước Pháp đã ký kết. LS Tuyên đã thẳng thắn nói với Cao Ủy Pháp là Tướng De Lattre de Tassigny rằng ông ta không có quyền can thiệp vào nội bộ Việt Nam và yêu cầu ông này rời khỏi phòng họp nội các của chính phủ Việt Nam. Tướng De Lattre de Tassigny tức giận ra lệnh trục xuất LS Tuyên ra khỏi Việt Nam. LS Tuyên đã tuyên bố: “Không một người Pháp nào có quyền trục xuất một người Việt Nam ra khỏi nước Việt Nam” [10].

Sau đó LS Tuyên rút ra khỏi nội các Trần Văn Hữu. Khi biết tin mật vụ Pháp đang đi lùng bắt để trục xuất ra khỏi nước và lưu đầy đi qua Mã đảo (Madagascar), ông trốn vào khu bưng biền Tây Ninh, liên kết với các giáo phái Cao Đài và các đảng phái quốc gia như Đại Việt, VNQDĐ, Việt Nam Phục Quốc Hội, Dân Xã Đảng và một số các nhà trí thức để lập một mặt trận liên kết chống lại cả Pháp lẫn Cộng Sản. Mặt Trận Thống Nhất Quốc Gia ra đời vào năm 1953. Năm sau, Mặt Trận Liên Minh Tổ Quốc, bao gồm cả hai lực lượng Hòa Hảo và Bình Xuyên, được thành lập.

Bên Lề Hội Nghị Genèva

Năm 1954, sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ, LS Trần Văn Tuyên được cử làm Ủy Viên trong phái đoàn Quốc Gia Việt Nam (QGVN) tại hội Nghị Genève. Lúc đầu phái đoàn Quốc Gia Việt Nam (QGVN) do Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định cầm đầu, sau đó là BS Trần Văn Đỗ. Trong phái đoàn QGVN có hai cựu huynh trưởng H.Đ. là Trần Văn Tuyên và Cung Giũ Nguyên. Ở bên trong phòng họp phái đoàn QGVN đã phản đối việc chia đôi đất nước dù chỉ là tạm thời để chờ một cuộc tổng tuyển cử ở cả hai miền vào năm 1956. Ở bên ngoài, ông Võ Thành Minh thổi sáo bên bờ hồ Leman kêu gọi chấm dứt chiến tranh trên lãnh thổ Việt Nam [11]. Ông Võ Thành Minh đã một lần bị Việt Minh bắt vì bị nghi là gián điệp khi ông Võ Thành Minh đi xe đạp từ bắc vào nam để kêu gọi hoà bình. Nhờ sự can thiệp của hai bạn Hướng Đạo cũ là các ông Hoàng Đạo Thúy và Tạ Quang Bửu, ông Võ Thành Minh đã được thả ra. Chán Việt Minh, ông Võ Thành Minh vượt tuyến qua sống trong vùng quốc gia. Năm 1949 thất vọng với phe quốc gia, ông Võ Thành Minh bỏ ra ngoại quốc. Người ta được biết rằng các ông Tạ Quang Bửu, Trần Văn Tuyên và Võ Thành Minh đã từng sinh hoạt trong cùng Tráng Đoàn Lam Sơn tại Hà Nội. Ông Võ Thành Minh tuyệt thực đòi hai phe Việt Nam phải đến gặp mình để hòa giải. LS Tuyên đã đến thăm ông Võ Thành Minh bên hồ Leman, nhưng ông Võ Thành Minh từ chối tiếp chuyện vì không có sự hiện diện của phái đoàn Dân Chủ Cộng Hòa Việt Nam (DCCHVN). Khi được tin đất nước Việt Nam sắp bị chia cắt, ông Võ Thành Minh vào Trụ sở Vạn Quốc định tự vẫn nhưng được cứu thoát. Sau đó ông Võ Thành Minh bị trục xuất ra khỏi Thụy Sĩ [12].

Hội Nghị Genève cũng là nơi chứng kiến một cuộc hội ngộ của hai cựu huynh trưởng H.Đ. Việt Nam một lần cuối cùng trong đời là LS Trần Văn Tuyên và KS Tạ Quang Bửu. Thông thường, nhân viên của hai phái đoàn Việt Nam không muốn nhìn mặt nhau. Tuy nhiên trong các phiên họp thâu hẹp của các Ủy Ban Quân Sự, các đại biểu QGVN và DCCHVN đã lịch sự chào nhau. Riêng các ông Tuyên, Bửu và Hoàng Nguyên” [13]. có lẽ vì tình anh em Hướng Đạo cũ đã dám bắt tay nhau và chào hỏi nhau dù rằng chỉ nói có một hai lời ” [14]. Ngồi đối diện nhau trong bàn hội nghị vì chính kiến khác biệt, tuy nhiên trong những phút riêng tư họ vẫn trao đổi một vài câu chuyện với nhau. Ông Bửu lúc đó là Thứ Trưởng Quốc Phòng của Chính Phủ Cộng Sản nói với LS Tuyên rằng “Anh Giáp (Tướng Võ Nguyên Giáp) thường tâm sự với tôi là đời anh có một hối hận rất lớn đó là đã để cho anh Tuyên vào Nam…” [15].

KS Bửu [16] lớn hơn LS Tuyên có ba tuổi. Một người sinh ở Nghệ An. Người kia sinh ở Tuyên Quang. Cả hai đều xuất thân từ hai gia đình nho giáo. Cả hai đều là học sinh xuất sắc, thông minh vượt bực. Cả hai là huynh trưởng H.Đ. tham gia vào việc khai sinh và phát triển phong trào giáo dục thanh thiếu niên này từ thời kỳ phôi thai. Cả hai đã trở thành các vị đại trí thức thời đó, thành thạo nhiều ngoại ngữ. Cả hai cùng có một đời sống thanh bạch dù cả hai dư phương tiện để sống xa hoa. Về phương diện nghề nghiệp, ông Bửu là một kỹ sư điện, Ông Tuyên trở thành luật sư. Cả hai cùng giữ những chức vụ quan trọng trong guồng máy chính quyền [17]. Cả hai cùng liêm chính và cương trực, cùng yêu nước thương nòi, cùng làm cách mạng, nhưng mỗi người làm cách mạng một cách khác nhau. Một người chọn con đường cách mạng vô sản chuyên chính. Người kia chọn con đuờng cách mạng tư sản với chủ trương “Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do, Dân Sinh Hạnh Phúc”. Cả hai cùng tin rằng con đường của mình đi sẽ mang lại cho đất nước một nền độc lập, dân chủ, tự do và no ấm.

Hơn 20 năm sau Hội Nghị Genève, LS Trần Văn Tuyên chết đột ngột vào ngày 26/10/1976 trong khi bị giam cầm bởi những người làm cách mạng vô sản. Một thập niên về sau, KS Tạ Quang Bửu mất ngày 21/8/1986 trong hoàn cảnh nghèo khổ và bạc đãi của chế độ vô sản [18]. Chỉ bốn tháng sau đó, vào cuối năm 1986, ông Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư của Đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) phát động chương trình cải tổ kinh tế “Đổi Mới”, mặc nhiên chấm dứt cuộc Cách Mạng Vô Sản, nhằm ngăn chặn nạn đói đang làn tràn tại Việt Nam và trở thành trầm trọng vào năm 1985, do sự thất bại của chính sách Nông Trường Tập Thể. Đất nước độc lập, Nam Bắc thống nhất, nhưng đa số người dân Việt Nam còn thiếu tự do và hạnh phúc.

Thời Đệ Nhất Cộng Hòa

Hội nghị Genève chấm dứt. Trở về nước LS Tuyên thành lập Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp vào năm 1955 để vận động xây dựng một chế độ dân chủ thực sự cho miền Nam. Ông là người đầu tiên vào năm 1958 kêu gọi Tổng Thống Ngô Đình Diệm dân chủ hóa chính quyền, chống bất công xã hội, thiết lập các quyền tự do căn bản (ngôn luận, báo chí, lập hội,…). Trong những năm đầu sau khi về nước chấp chánh, ông Ngô Đình Diệm đã được lòng dân vì những tiến bộ đạt được trong các lãnh vực kinh tế và xã hội. Trong những năm kế tiếp, chính sách thiếu sáng suốt của ông, sản phẩm của một chế độ độc tài và phong kiến, đã đưa miền Nam Việt Nam dần dần đến chỗ suy sụp về mặt xã hội, kinh tế và xáo trộn về chính trị. Được Tổng Thống Diệm mời vào làm Bộ Ngoại Giao sau khi BS Trần Văn Đỗ từ chức, nhưng LS Tuyên đã khước từ vì quan niệm rằng mình không thể hợp tác với một quan lại của triều đình Huế mà lại truất phế vua. Ông Diệm đã một lần được Vua Bảo Đại định mời lập chính phủ vào thời 1945. Sau khi lực lượng viễn chinh Nhật vào ngày 9.3.1945 đảo chính Pháp, tấn công vào các nơi trú quân của Pháp, bắt nhốt các binh lính và các viên chức Pháp, Nhật buộc vua Bảo Đại ly khai chế độ bảo hộ của Pháp và tuyên bố nước Việt Nam độc lập trong Khối Đại Đông Á của Nhật. Ông Ngô Đình Diệm, một người thân Nhật, được chọn làm Thủ Tướng. Nhưng vào phút chót, Nhật đổi ý và chỉ định ôngTrần Trọng Kim, một sử gia, không biết về chính trị, ra lập nội các vì ông Trần Trọng Kim ôn hòa và dễ bảo hơn ông Diệm [19]. Vào năm 1954, được sự ủng hộ của Hoa Kỳ, ông Diệm đã được Vua Bảo Đại mời về nước chấp chánh. Ngày 23/10/1955, qua một cuộc trưng cầu dân ý, ông Diệm truất phế vua Bảo Đại và lên làm Tổng Thống.

Trong những năm 1955-1958, tình trạng tài chánh của gia đình rất eo hẹp, LS Tuyên phải đi dậy học ở một số trường tư ở Saigon để mưu sinh như trường Hoàng Việt, Thăng Long và Phước Truyền. Cũng trong khoảng thời gian đó, ông bị công an bắt cóc đôi ba lần ngay ngoài đường phố. Có lần xe hơi của ông do tài xế lái, đang trên đường đi đến trường học của các con, thì bị hai xe khác đi kèm ép sát hai bên để bắt ngưng lại. Ông chỉ kịp nhắn lại với các con vài lời trước khi bị lôi đi. Trong giữa thập niên 50 cho đến cuối năm 1963 tại “miền Nam Tự Do” đã xẩy ra những cảnh bắt cóc người giữa thanh thiên bạch nhật như vậy. Ông Nguyễn Hữu Chung, cựu Dân Biểu trong khối Đối Lập châm biếm : “Thời ông Diệm, ông Nhu, con thằn lằn ban đêm không dám tắc lưỡi” [20]. Mặc dầu vậy, tháng 4/1959, LS Tuyên cùng với 17 nhà chính trị độc lập nổi tiếng của miền Nam như các ông Lê Ngọc Chấn, Trần Văn Đỗ, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Phan Khắc Sửu, Nguyễn Bảo Toàn, Trần Văn Văn, Nguyễn Lưu Viên họp tại khách sạn Caravelle, Saigon thành lập nhóm Tự Do Tiến Bộ [21] và thảo ra một văn thư gửi cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm để kêu gọi ông dân chủ hóa guồng máy chính trị của miền Nam, thừa nhận đối lập, tôn trọng dân quyền. Văn thư phản đối chính sách độc tài đàn áp các đảng phái quốc gia đối lập của chính phủ đương thời [22]. Vì lý do đó, sau vụ đảo chánh hụt của Đại Tá Nhẩy Dù Nguyễn Chánh Thi vào ngày 11/11/1960, LS Trần Văn Tuyên và nhóm Tự Do Tiến Bộ bị nghi ngờ dính líu vào vụ đảo chánh và bị bắt giam. Một số bị đưa ra Côn Đảo, trong đó có cụ Phan Khắc Sửu, một số bị giam tại Trại Võ Tánh của Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, trong đó có LS Tuyên [23].

Thời Đệ Nhị Cộng Hòa

Sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa chấm dứt. LS Tuyên được thả về. Trong những năm đầu của nền Đệ Nhị Cộng Hòa, với chức vụ Tổng Thư Ký, LS Tuyên tổ chức lại xứ bộ VNQDĐ Miền Nam. Cùng trong năm đó LS Tuyên được bầu làm Chủ Tịch Hội Đồng Dân Chính (1963) và là một đại biểu trong Hội Đồng Soạn Thảo Hiến Pháp (1964). LS Tuyên tham gia vào chính phủ dân sự cuối cùng của Miền Nam (1965) với chức vụ Phó Thủ Tướng Đặc Trách về Kế Hoạch trong nội các của BS Phan Huy Quát với Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Trưởng Quốc Phòng. Đây là chính phủ dân sự duy nhất của miền Nam sau khi Tổng Thống Diệm bị lật đổ. Chính phủ của BS Quát được thành lập trùng hợp với việc các toán quân Mỹ đầu tiên đổ bộ vào bờ biển Đa Nẵng vào ngày 8/3/1965 mà không có sự thỏa thuận trước của chính phủ Quát. LS Tuyên và Thủ Tướng Phan Huy Quát chủ trương chống lại việc mang quân Mỹ vào Việt Nam nên chỉ sau 4 tháng cầm quyền, nội các Phan Huy Quát bị phe quân nhân của Tướng Nguyễn Văn Thiệu, với hậu thuẫn của Hoa Kỳ, lật đổ vào tháng 6/1965 [24].

Trong thời gian ngắn ngủi làm Phó Thủ Tướng trong nội các Phan Huy Quát, LS Tuyên đã công du qua 10 nước Phi Châu và Toà Thánh La Mã. Phái đoàn Việt Nam do LS Tuyên lãnh đạo đã được đón tiếp trọng thể ở mọi nơi. Đức Giáo Hoàng Joan Paul VI đã không hạn chế giờ giấc để tiếp chuyện riêng với LS Tuyên. Tổng Thống Houary Boumedienne của Algeria đã tuyên bố: “Tôi đang tiếp một chiến sĩ cách mạng cùng chí hướng chống thực dân Pháp với tôi trước đây chứ không phải tiếp một Phó Thủ Tướng của một nước. Do đó sẽ không có vấn đề giới hạn giờ giấc và nghi lễ”. Quốc Vương Haile Selassie của Ethiopia đã tiếp kiến LS Tuyên ba giờ liền thay vì chỉ có 30 phút như đã dự tính trước. Sau chuyến công du trở về, Phái đoàn Việt Nam đã hoàn trả lại cho công quỹ gần 50 ngàn đô la [25].

Trong 11 năm cuối cùng của cuộc đời, LS Tuyên tiếp tục tranh đấu cho nhân quyền và dân quyền. Ông sáng lập và làm chủ tịch Hội Quốc Tế Bảo Vệ Nhân Quyền, chi Nhánh Việt Nam (1967). Cùng năm đó LS Tuyên tham gia vào Hội Luật Gia Quốc Tế có trụ sở tại Genève. Ông còn làm Luật Sư Cố Vấn cho Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam. Năm 1971, LS Tuyên ra tranh cử chức Dân Biểu quận 3, Saigon. Cuộc tranh cử vào Hạ Viện của ông trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa cũng có nhiều điều đáng nhớ. Dấu hiệu tranh cử của LS Tuyên là cây thông, một biểu tượng cho tính cương trực và lòng yêu chuộng tự do. Bích chương và truyền đơn tranh cử của LS Tuyên chỉ vọn vẹn có dăm ba chữ. Ông tuyệt đối không chấp thuận bất cứ hình thức mua phiếu nào. Việc vận động tranh cử cũng được hạn chế thí dụ như không được phép phát truyền đơn lẻ tẻ từng nhà. Tuy nhiên LS Tuyên đã được sự đắc cử và giữ chức Dân Biểu Quận Ba từ năm 1971 cho đến 30/04/1975 và được bầu làm trưởng khối Dân Tộc Xã Hội trong Hạ Viện, đối lập với các chính phủ quân sự. Các Tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu đã từng mời LS Tuyên giữ chức Đại Sứ tại Anh quốc, nhưng vì tình hình quốc nội thời đó sôi bỏng ông quyết định ở lại trong nước dù đã được chính phủ Anh chấp thuận. Vào ngày 26/4/1975, trong khi lưỡng viện quốc hội còn đang bỏ phiếu trao quyền hành pháp cho Tướng Dương Văn Minh để thành lập chính phủ lâm thời thì LS Tuyên đã được Tướng Minh mời giữ chức vụ Đại Diện Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, nhưng trong hoàn cảnh dầu sâu lửa bỏng trong nước, ông cũng đã khước từ lời mời đó.

Từ Hiệp Định Paris 1972/1973 đến 30/04/1975

LS Trần Văn Tuyên đã từng giữ nhiều chức vụ trong các tổ chức hành pháp quan trọng hơn chức dân biểu Quốc Hội. Khi được hỏi, LS Tuyên giải thích rằng quyết định tranh cử vào quốc hội nhằm mục đích để tạo một cái thế đối lập hợp hiến hợp pháp với chính phủ quân nhân và để chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh chính trị công khai với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) mà ông tiên đoán rằng dù muốn hay không tình hình đất nước đòi hỏi một giải pháp chính trị mà phe quốc gia bị áp lực phải công nhận vai trò của MTGPMN trong chính trường của miền Nam. Nhận định rằng chính sách của các chính phủ quân nhân trong thời gian 1965 1975 đưa đất nước đến chỗ bất ổn và tình trạng này của Miền Nam trong năm năm cuối càng trở nên trầm trọng hơn. Trong khi đó tại Hoa Kỳ, phong trào phản chiến càng ngày càng lan rộng với con số thương vong của binh sĩ Mỹ càng ngày càng cao. Bốn năm sau khi Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ vào bờ biển Đà Nẵng, chính sách của Hoa Kỳ đã hoàn toàn thay đổi với quyết định rút quân ra khỏi Việt Nam bằng mọi giá. Vào năm 1969, lần đầu tiên số binh sĩ Hoa Kỳ không tăng lên mà còn giảm đi 60,000 người, xuống còn còn 480,000 người [26]. Sau đó việc giảm quân số tiếp tục. LS Tuyên tin tưởng rằng giải pháp trung lập hóa miền Nam là một giải pháp thực tiễn, khôn ngoan và khả thi ở thời điểm đó để cứu vớt tình thế, mở đường cho quân Mỹ rút khỏi miền Nam, tránh sự tàn phá thêm của chiến tranh, tái lập hòa bình cho Việt Nam.

Ngày 28/01/1973 Hiệp Định Paris được ký kết đòi hỏi thành lập tại miền Nam Việt Nam một chính phủ liên hiệp gồm ba thành phần: chính phủ VNCH, chính phủ Cách Mạng Lâm Thời của Mặt Trận GPMN và lực lượng thứ ba [27]. Hai năm sau (1975) giải pháp trung lập của Pháp mang ra thử nhưng đã quá trễ. Ngày 28/4/1975, sau khi đi dự lễ nhậm chức Tổng Thống của Tướng Dương Văn Minh tại Dinh Độc Lập trở về với tư cách Trưởng Khối Đối Lập của Hạ Viện, LS Tuyên đã nói với một người đồng chí của mình như sau: “Lá bài trung lập của Trần Văn Hữu không thành, Pháp đã thất bại. Con cờ Dương Văn Minh chỉ là ngày giờ! Chuyện lỡ rồi, bàn cờ đã bị xóa. Chúng ta đã thua trận! Chúng ta là nạn nhân của các siêu cường vì chúng ta ngu dại! Thật đáng tiếc” [28]. Đây không phải là lần đầu tiên LS Tuyên chứng tỏ sự hiểu biết về chính trị và thời cuộc. Vào năm 1970, Tướng Nguyễn Cao Kỳ ngỏ ý muốn được giới thiệu ra tranh cử chức tổng thống, LS Tuyên đã tuyên bố: “Đây là một trò chơi dân chủ. Mỹ sẽ đưa Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống” [29].

Trong mùa xuân 1972, ba sư đoàn CSBV đã thử lửa trong cuộc tấn công vào Kontum từ tháng 4/1972 đến tháng 7/1972 [30] cùng một lượt với cuộc tấn công đại quy mô vào Quảng Trị và An Lộc với tổng cộng thêm chín sư đoàn ở hai mặt trận này, một cuộc trắc nghiệm đầu tiên về kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, trong khi cuộc hoà đàm ở Paris đang tiếp diễn [31]. Năm 1974, nhắc lại chiến lược của Tướng Võ Nguyên Giáp là ưu tiên dành quyền kiểm soát Cao Nguyên, LS Tuyên báo động các giới chức quân sự là Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) có thể sẽ đánh Ban Mê Thuột. Quả thật, trận chiến then chốt này thực tế xẩy ra vào 4/3/1975 – 3/4/1975 trong chiến dịch Tây Nguyên [32] mở đầu cho sự suy sụp toàn bộ của miền Nam Việt Nam vào ngày 30/4/1975. Vào những năm 1952 1954, LS Tuyên đã làm cố vấn về cả hai phương diện chính trị và quân sự cho Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và tướng Trình Minh Thế với chức Đại Tá Quân Hàm. LS Tuyên được cử vào trong Ủy Ban Quân Sự của phái đoàn QGVN tại Hội Nghị Genève 1954 cũng vì sự hiểu biết quân sự của mình. Cuốn sách “Hồi Ký Hội Nghị Genève 1954” của LS Tuyên đã trình bầy rất đầy đủ về thế trận, vị trí đóng quân và tiến quân của các phe liên hệ.

Tình Bạn Với Tướng Võ Nguyên Giáp

Ông Võ Nguyên Giáp, xấp xỉ tuổi của LS Tuyên, sinh vào năm 1912 tại làng An Xã, tỉnh Quảng Bình, một vùng nghèo nhất nước dưới thời Pháp đô hộ. Ông Giáp bắt đầu học tại trường Quốc Học Huế vào năm 1924, cùng trường với các ông Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm. Sau khi đậu tú tài ở Huế, ông Giáp ra Hà Nội, học một năm tại trường Trung Học Albert Sarraut, rồi sau đó theo học trường Đại Học Luật Khoa Hà Nội và tốt nghiệp cử nhân vào năm 1937. Sau đó Tướng Giáp tiếp tục học thêm một năm cao học [33]. Trong khoảng đầu thập niên 40, ông Võ Nguyên Giáp và người bạn đồng nghiệp Trần Văn Tuyên cùng dậy học tại trường Tư Thục Thăng Long. Ông Giáp chuyên dậy về sử ký và địa dư, nhưng lại ham mê đọc sách về quân sự. Hai người rất thân nhau vì cùng theo học ngành luật khoa, cùng lý tưởng chống thực dân Pháp. Gia đình của hai người cũng rất thân nhau, nhưng ông Giáp không bao giờ mê hoặc được LS Tuyên về chủ thuyết vô sản của Karl Marx. Có một lần ông Bùi Diễm đưa cho LS Tuyên coi cuốn sách Tư Bản Luận do ông Giáp cho mượn, LS Tuyên có nói với ông Bùi Diễm: “Khó nghe lắm đấy. Chú đọc thì cứ đọc. Cần gì thì anh giảng cho chú nghe” [34]. Trong lần cuối cùng gập gỡ nhau nhân hội nghị sơ bộ với Pháp khai mạc vào ngày 19/4/1946 tại trường Yersin, Đà Lạt để chuẩn bị cho hội nghị Fontainebleau, Tướng Giáp thuộc phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Việt Minh) còn kêu gọi LS Tuyên trở về hợp tác với ông Hồ Chí Minh. Sau khi bị từ khước, Tướng Giáp còn nói với LS Tuyên một câu bằng Pháp ngữ nguyên văn như sau : “Alors, tu restes toujours mon ami “. (Dù sao anh cũng sẽ mãi mãi là bạn của tôi). LS Tuyên và Tướng Giáp vẫn kính mến nhau mặc dù hai người ở hai chiến tuyến khác nhau. LS Tuyên đã nhắc lại kỷ niệm đó với một ký giả của tờ báo the Korea Herald trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 9/1972 [35].

LS Tuyên hi vọng một ngày nào đó sẽ được tiếp Tướng Giáp tại căn biệt thự trắng thuê tại 198 đường Hồng Thập Tự, trước vườn hoa Tao Đàn, Saigon. Ước mong đó không bao giờ thành. Tướng Giáp không bao giờ bước chân tới căn nhà trắng của LS Tuyên. Nhưng ông đã nhờ người tới địa chỉ đó để liên lạc với LS Tuyên. Trong những năm 1954 1956, sau khi Việt Nam bị chia cắt ra làm hai miền, Tướng Giáp vẫn liên lạc với LS Tuyên qua một vài sĩ quan trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Có lần LS Tuyên nhận được cành đào của Tướng Giáp gửi từ Hà Nội vào tặng gia đình ông nhân một dịp tết. Sau khi Miền Nam thất thủ, Tướng Giáp cử một sĩ quan cao cấp vào Saigon đưa thư đề nghị LS Tuyên viết thư cho Bộ Chính Trị tại Hà Nội để khỏi đi học tập cải tạo. LS Tuyên đã cám ơn Tướng Giáp nhưng không chấp thuận đề nghị của ông. Ít lâu sau, theo lệnh của nhà nước LS Tuyên đi trình diện để học tập cải tạo và không bao giờ trở lại căn nhà 198 đường Hồng Thập Tự nữa.

Sinh ở Đây Thì Chết Cũng ở Đây

Vào năm chót của nền Đệ Nhị Cộng Hòa, LS Tuyên được bầu làm Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn của Tòa Thượng Thẩm Saigon (1975). Trong những giờ phút cuối cùng các luật sư đến xin giấy giới thiệu để di tản ra ngoại quốc, LS Tuyên sẵn sàng ký cho họ, nhưng cũng nói với các đồng nghiệp là mình quyết định ở lại. Bà Trần Đạm Phương theo chồng sống tại Mỹ đã được ít lâu, vào ngày 29/04/1975 điện thoại về để thuyết phục cha rời Viêt Nam. LS Tuyên đã trả lời: “Thà chết vì bàn tay của kẻ thù còn hơn sống yên thân trong sự khinh thường của đồng bào, của bạn bè, của đồng chí và đồng minh”. Khi ông Bùi Ngọc Lâm, một đồng chí, cùng hai người con trai của LS Tuyên là Trần Tử Thanh và Trần Vọng Quốc đến trao công điện của bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ xác nhận đã dành đủ chỗ cho cả gia đình di tản, LS Tuyên đã khẳng định rằng mình “…không phải là người đi làm bồi cho Mỹ. Sinh ở đây thì chết cũng ở đây…” Tuy nhiên LS Tuyên cho phép các con được tự do quyết định theo ý muốn của mỗi người.

Ngày17.6.1975, nhà cầm quyền Hà Nội đã bắt LS Tuyên vào “trại cải tạo” tại Long Thành. Khi bị bắt buộc viết bản tự kiểm thảo, LS Tuyên vỏn vẹn chỉ viết có mấy hàng chữ dưới đây:

“Tôi không có tội gì với tổ quốc và đồng bào của tôi cả. Nếu có tội thì đó chỉ là tội chống cộng sản, chống thực dân, chống độc tài và bất công”

Khi những hàng chữ này lọt ra ngoài lãnh thổ VN và xuất hiện trên các báo chí ngoại quốc, Ký giả Theodore Jacqueney trên trang nhất của tờ báo New York Times ra ngày 17.9.1976 đã gọi LS Tuyên là “Solzhenitsyn của Quần Đảo Ngục Tù Việt Nam” (Solzhenitsyn of Vietnam’s Gulag Archipelago). Đến ngày 5.10.1975, nhà cầm quyền Hà Nội đã đưa LS Tuyên về một trại giam ở Thủ Đức. Đến tháng 4.1976 LS Tuyên được di chuyển bằng máy bay ra miền bắc và bị giam trong trại Hà Tây sau này đổi tên là Hà Sơn Bình. LS Tuyên chết đột ngột trong trại giam này vào ngày 26.10.1976. Khi qua Pháp vào tháng 6.1977 để xin viện trợ, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng tuyên bố là ông Trần Văn Tuyên vẫn sống và khoẻ mạnh vì sợ công luận thế giới. Năm 1977, Hội Ân Xá Quốc Tế tuyên xưng LS Tuyên là một tù nhân lương tâm. Đến ngày 19.5.1978, tòa Đại Sứ Hà Nội tại Hòa Lan chính thức trả lời các tổ chức nhân quyền quốc tế là ông Trần Văn Tuyên đã chết vì băng huyết ở trong não bộ. Trong số những người chứng kiến và đã mô tả cái chết đột ngột của LS Tuyên đã di tản khỏi Việt Nam và đã sống ở hải ngoại là các ông Phan Vỹ, Thái Văn Kiểm [36], BS Trần Vỹ [37] và BS Nguyễn Văn Ái [38].

Kết Luận

LS Trần Văn Tuyên đã dành cả cuộc đời của mình để tranh đấu cho nền độc lập của đất nước và quyền tự do và hạnh phúc của dân tộc. Một cuộc tranh đấu bền bỉ, mãnh liệt, nhưng lại ôn hòa dựa trên căn bản dân quyền và nhân quyền, lấy ngòi bút, tiếng nói, diễn đàn quốc hội và luật pháp làm công cụ để đấu tranh. Chỉ tiếc rằng khi chết đi, ước mộng của ông chưa thành. Sự ra đi của LS Tuyên là một mất mát to lớn cho tổ quốc Việt Nam. Ông đã để lại trong lòng mọi người, cả bạn lẫn thù, một niềm tôn kính sâu sa. Ông đã đi vào lòng đất mẹ do sự chọn lựa của chính mình, đã đi theo Nguyễn Thái Học và để lại tấm gương oai hùng muôn đời cho các thế hệ mai sau. Tác giả xin mượn lời nhắn nhủ của chính LS Trần Văn Tuyên viết trong Hồi Ký Hội Nghị Genève 1954 để kết thúc bài tiểu sử này:

“Nhắc lại quãng lịch sử quá khứ … tôi mong các bạn nhớ bài học lịch sử để hiểu sự việc ngày nay và chuẩn bị công việc ngày mai, để sẵn sàng ứng phó với những biến cố lịch sử “.


Chú thích:

[1] Nguyễn Tường Bách là em của nhà văn Nguyễn Tường Tam, bút hiệu là Nhất Linh trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
[2] Chính Đạo Vũ Ngự Chiêu, “Việt Nam Niên Biểu 1939 1975”, Văn Hóa, 1996. Cũng theo tài liệu này, vua Bảo Đại vào ngày 15.6.1945 xuống dụ thành lập Hội Đồng Thanh Niên, chỉ định ông Hoàng Đạo Thúy làm chủ Tịch, ông Trần Duy Hưng và ông Tạ Quang Bửu làm Phó Chủ Tịch.
[3] Nguyễn Ngọc Bích, “Trần Văn Tuyên và Lý Tưởng Nhân Quyền ở Việt Nam”, diễn văn đọc trong buổi lễ tưởng niệm 20 năm cố LS Tuyên tại George Mason University, Law School, Virginia, 1996.
[4] Hương Giang Thái Văn Kiểm, “Việt Nam Gấm Hoa”, Làng Văn, Canada, 1997.
[5] Trần Văn Tuyên, “Người Khách La”, Sáng Tạo, Saigon, 1968.
[6] Bà Trần Thị Phúc mất năm 1959 tại Saigon. Bà Phạm Thị Côn là người vợ thứ hai của LS Tuyên.
[7] Paul Hendrickson, “The Living and the Dead Robert McNamara and Five Lives of a Lost War”, Alfred A. Knopf Publisher, New York, 1996.
[8] Viện Vận Động Dân Chủ Cho Việt Nam, “Tiểu Sử Trần Văn Tuyên”, Washington D.C., Mùa Đông 1988.
[9] Jean Sainteny, “Histoire d’une Paix Manquée”, Amiot Dumont, Paris 1954 (t. 171).
[10] Theodore Jacqueney, “They Are Us, Were We Vietnamese”, WorldView April 1977.
[11] Ông Võ Thành Minh bị mất tích trong biến cố Tết Mậu Thân, 1968 tại miền Trung.
[12] Trần Văn Tuyên, “Hồi Ký Hội Nghị Genève 1954”, Nhà Xuất Bản Chim Đàn, Saigon, 1954.
[13] Ông Hoàng Nguyên làm thông dịch viên cho phái đoàn Dân Chủ Cộng Hòa Việt Nam.
[14] Xin xem xuất xứ ở chú thích 10.
[15] Bùi Ngọc Lâm, Bút Ký “30 Năm Với Lãnh Tụ Cách Mạng Trần Văn Tuyên”, Đặc San Vận Động Dân Chủ Cho Việt Nam, Washington, D.C., 1988.
[16] Tôn Thất Thiện, “Anh Tạ Quang Bửu “, Bạch Mã, Cypress California, 1996.
[17] Ông Ta Quang Bửu (1910 1986) từng giữ chức vụ Thiếu tướng Quân đäi Nhân Dân, Thứ trưởng Quốc Phòng và Bộ Trưởng Bộ Đại Học.
[18] Thành Tín Bùi Tín, “Hoa Xuyên Tuyết”, Nhà Xuất Bản Nhân Quyền, Saigon Press, Irvine, California 1991.
[19] Stanley Karnow, “Vietnam : A History” , Penguin Books, New York 1997.
[20] Nguyễn Hữu Chung, “Nhớ Anh Trần Văn Tuyên”, Báo Tiếng Chuông, Montreal, Canada 5.1997.
[21] Báo chí gọi là nhóm Caravelle.
[22] Ông Bùi Diễm có mặt trong buổi họp ở khách sạn Caravelle, tham dự vào việc soạn thảo nhưng không ký vào lá thư gửi Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
[23] Trái với một số tài liệu đã viết sai rằng LS Tuyên bị đầy ra Côn Đảo.
[24] Bui Diem with David Chanoff, “In the Jaw of History”, Houghton Mifflin Company, Boston 1987.
[25] Xin xem xuất xứ liệt kê ở chú thích số 15.
[26] Xin xem xuất xứ ở chú thích 19.
[27] Tiziano Terzani, “Giai Phong The Fall and Liberation of Saigon”, St. Martin’s Press, New York 1976.
[28] Xin xem xuất xứ liệt kê ở chú thích số 15.
[29] Trích trong diễn văn của ông Tạ Quang Trung đọc trong buổi lễ tưởng niệm 20 năm cố LS Tuyên Tuyên được tổ chức tại George Mason University Law School, Virginia, 1996.
[30] Lý Tòng Bá, “Hồi Ký 25 Năm Khói Lửa, của Một Tướng Cầm Quân Tại Mặt Trận”, 1996.
[31] Xin xem xuất xứ ở chú thích 24.
[32] Văn Tiến Dũng, “Our Great Spring Victory An Account of the Liberation of South Vietnam”, Monthly Review Press, New York 1977.
[33] Vo Nguyen Giap, “The Military Art of People War, Selected Writings of General Vo Nguyen Giap”, edited by Russell Stetler, Monthly Review Press, New York 1970.
[34] Trích trong diễn văn của ôngBùi Diễm đọc trong buổi lễ tưởng niệm 20 năm cố LS Tuyên được tổ chức tại George Mason University, Law School, Virginia, 1996.
[35] Korea Herald, September 27, 1972.
[36] Xin coi chú thích số 9.
[37] P.V. Tran, “Prisonner Politique Au Viet Nam,1975 1979” , Editions L’Harmattan, Paris, 1990.
[38] Văn Uyên (Nguyễn Văn Ái), “Luật Sư Trần Văn Tuyên Tấm Gương Bất Khuất”, trong Thư Mục Y Giới.

 

Facebooktwitterpinterestlinkedinmail

Sáng Lập Đảng

Nguyễn Thái Học người Sáng Lập Việt Nam Quốc Dân Đảng

Tìm Bài Theo Tháng

Tự Điển Hỏi Ngã Tiếng Việt