Toàn văn tiếng Việt Hiệp Ước Thương Mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP): Chương 8 & 9

Hiệp Định TPP gồm có 30 chương, sau đây là  Chương 8 & 9 (các chương sau sẽ được đăng kế tiếp)

CHƯƠNG 8

RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI

Điều 8.1: Giải thích từ ngữ

  1. Trong phạm vi của Chương này:

Định nghĩa của các thuật ngữ sử dụng trong Chương này nêu trong Phụ lục 1 của Hiệp định TBT, bao gồm các chapeau và thuyết minh của Phụ lục 1, được đưa vào Chương này và là một phần của Chương này với những sửa đổi.

giao dịch lãnh sự là các yêu cầu trong đó sản phẩm của một Bên dành cho xuất khẩu vào lãnh thổ của một Bên khác đầu tiên phải chịu sự giám sát của lãnh sự Bên nhập khẩu trong lãnh thổ của Bên xuất khẩu nhằm có được hoá đơn lãnh sự hoặc thị thực lãnh sự cho các tài liệu hướng dẫn đánh giá hợp quy;

cho phép lưu hành là một hoặc nhiều quá trình mà một Bên phê duyệt hoặc đăng ký một sản phẩm để cho phép việc tiếp thị, phân phối hoặc bán hàng của sản phẩm đó trong lãnh thổ của Bên đó.   Quá trình hoặc các quá trình có thể được mô tả trong pháp luật hoặc quy định trong nước theo nhiều cách khác nhau, bao gồm “marketing authorisation” (“cho phép lưu hành”), “authorisation” (“cho phép”), “approval” (“chấp thuận”), “registration” (“đăng ký”), “sanitary authorisation”, “sanitary registration” và “sanitary approval” (đăng ký, cấp phép, chấp thuận về vệ sinh đối với một sản phẩm). Cho phép lưu hành không bao gồm thủ tục thông báo;

hiệp định công nhận lẫn nhau là một thỏa thuận có tính ràng buộc giữa các chính phủ nhằm công nhận kết quả đánh giá hợp quy được tiến hành không tuân theo các quy định hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp trong một hoặc nhiều lĩnh vực, bao gồm thỏa thuận giữa các chính phủ trong việc thực hiện Thỏa thuận APEC về công nhận lẫn nhau trong việc đánh giá hợp quy của thiết bị viễn thông và Thỏa thuận công nhận lẫn nhau về thiết bị điện và điện tử và các thoả thuận khác có thể được gọi là “thỏa thuận công nhận lẫn nhau”, nhưng có quy định công nhận việc đánh giá hợp quy không tuân theo quy định hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp trong một hoặc nhiều lĩnh vực;

thỏa thuận công nhận lẫn nhau là một thỏa thuận quốc tế hoặc khu vực (bao gồm thỏa thuận công nhận đa phương) giữa các cơ quan chứng nhận công nhận sự tương đương của các hệ thống chứng nhận (dựa trên đánh giá ngang hàng) hoặc giữa các cơ quan đánh giá hợp quy công nhận kết quả đánh giá hợp quy;

giám sát sau thị trường là thủ tục một Bên thực hiện sau khi sản phẩm đã được đưa vào thị trường của mình để Bên đó giám sát hoặc đánh giá sự tuân thủ các yêu cầu của Bên mình đối với sản phẩm;

 

Hiệp định TBT là Hiệp định WTO về rào cản kỹ thuật đối với thương mại; và

xác minh là hành động để khẳng định tính xác thực của từng kết quả đánh giá hợp quy, như yêu cầu cung cấp thông tin từ tổ chức đánh giá hợp quy, tổ chức đã chứng nhận nhận, phê duyệt, cấp phép tổ chức đánh giá hợp quy, hoặc công nhận dưới hình thức khác, nhưng không bao gồm các yêu cầu theo đó một sản phẩm phải được đánh giá hợp quy trong lãnh thổ của Bên nhập khẩu nếu sản phẩm đó đã được đánh giá hợp quy trong lãnh thổ của Bên xuất khẩu hoặc một bên thứ ba, ngoại trừ các trường hợp ngẫu nhiên hoặc không thường xuyên với mục đích giám sát hoặc phản hồi thông tin về việc không tuân thủ.

Điều 8.2: Mục tiêu

Mục tiêu của Chương này, bao gồm các Phụ lục, là tạo thuận lợi cho thương mại, bao gồm loại bỏ các rào cản kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại, tăng cường tính minh bạch, và đẩy mạnh hợp tác và quản lý hành chính tốt.

Điều 8.3: Phạm vi áp dụng

  1. 1. Chương này áp dụng cho việc chuẩn bị, thông qua và áp dụng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật, và quy trình đánh giá hợp quy của các cơ quan trung ương của chính phủ (và quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật, và quy trình đánh giá hợp quy của chính quyền cấp dưới trực tiếp của các cơ quan trung ương, nếu có) có thể ảnh hưởng đến thương mại hàng hóa giữa các Bên, trừ trường hợp quy định tại các khoản 3 và 4.

1bis. Mỗi Bên phải thực hiện các biện pháp hợp lý trong thẩm quyền của mình để khuyến khích sự tuân thủ của chính quyền địa phương cấp dưới trực tiếp của các cơ quan trung ương trong phạm vi lãnh thổ của mình trong việc chuẩn bị, thông qua và áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, và thủ tục đánh giá hợp quy với các Điều 8.5 (Tiêu chuẩn quốc tế, Hướng dẫn và khuyến nghị), 8.6 (Thủ tục đánh giá hợp quy), 8.7 (Giai đoạn tuân thủ Quy chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá hợp quy), và các Phụ lục của Chương này.

  1. Tất cả quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, và quy trình đánh giá hợp quy được nêu trong Chương này bao gồm cả các bản sửa đổi và bổ sung về quy định hoặc phạm vi áp dụng, trừ những sửa đổi và bổ sung không đáng kể.
  2. Chương này không áp dụng đối với thông số kỹ thuật do các tổ chức/cá nhân thuộc chính phủ cung cấp phục vụ các yêu cầu sản xuất, tiêu thụ của các tổ chức/cá nhân này. Các thông số kỹ thuật này được quy định trong chương 15 (Mua sắm Chính phủ).
  3. Chương này không áp dụng đối với các biện pháp vệ sinh dịch tễ. Các biện pháp này được quy định trong Chương 7 (Biện pháp vệ sinh dịch tễ).
  4. Để giải thích rõ hơn, Chương này không ngăn cản một Bên áp dụng hoặc duy trì quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với quyền và nghĩa vụ của mình theo Hiệp định này, Hiệp định TBT và các nghĩa vụ quốc tế khác có liên quan.

Điều 8.4: Áp dụng một số quy định của Hiệp định TBT

  1. Các quy định sau của Hiệp định TBT được đưa vào và trở thành một phần của Hiệp định này, với những sửa đổi:

(a)       Điều 2.1, 2.2, 2.4, 2.5, 2.9, 2.10, 2.11, 2.12;

(b)       Điều 5.1, 5.2, 5.3, 5.4, 5.6, 5.7, 5.8, 5.9; và

(c)       Khoản D, E and F của Phụ lục 3.

  1. Không Bên nào được viện đến giải quyết tranh chấp theo Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) đối với tố cáo vi phạm các quy định của Hiệp định TBT được đưa vào khoản 1 của Điều này.

Điều 8.5: Tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn và khuyến nghị

  1. Các Bên thừa nhận vai trò quan trọng của các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn và khuyến nghị trong việc hỗ trợ sự liên kết pháp lý cao hơn, quản lý hành chính tốt và giảm các rào cản không cần thiết đối với thương mại.
  2. Đối với vấn đề này, theo Điều 2.4 và 5.4 và Phụ lục 3 của Hiệp định TBT, trong việc xác định một tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn hay khuyến nghị theo định nghĩa của Điều 2, Điều 5 và Phụ lục 3 của Hiệp định TBT, mỗi Bên phải áp dụng Quyết định của Ủy ban TBT về nguyên tắc xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn và khuyến nghị trong mối liên hệ với Điều 2, Điều 5 và Phụ lục 3 của Hiệp định TBT (G/TBT/1/Rev.10), do Ủy ban WTO về Rào cản kỹ thuật trong thương mại ban hành.
  3. Các bên phải hợp tác với nhau, nếu khả thi và phù hợp, để đảm bảo rằng các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn và khuyến nghị có khả năng trở thành một cơ sở cho các quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy không tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại quốc tế.

Điều 8.6: Đánh giá hợp quy

  1. Theo Điều 6.4 của Hiệp định TBT, mỗi Bên phải áp dụng đối với những tổ chức đánh giá hợp quy trong lãnh thổ của một Bên khác các chính sách không kém thuận lợi hơn các chính sách áp dụng đối với tổ chức đánh giá hợp quy trong lãnh thổ của mình hoặc trong lãnh thổ của bất kỳ Bên nào khác. Để đảm bảo rằng các chính sách trên được áp dụng, mỗi Bên phải áp dụng đối với tổ chức đánh giá hợp quy trong lãnh thổ của một Bên khác các thủ tục, tiêu chuẩn, điều kiện giống hệt hoặc tương tự được áp dụng khi chứng nhận, phê duyệt, cấp phép hoặc công nhận các tổ chức đánh giá hợp quy trong lãnh thổ của mình dưới các hình thức khác nhau.
  2. Khoản 1 và 4 sẽ không ngăn cản một Bên thực hiện đánh giá hợp quy đối với sản phẩm cụ thể chỉ trong phạm vi các cơ quan chính phủ được chỉ định trong lãnh thổ của mình hoặc lãnh thổ của một Bên khác đúng với nghĩa vụ của mình theo Hiệp định TBT.
  3. Trường hợp một Bên thực hiện đánh giá hợp quy theo quy định tại khoản 2, và tiếp theo Điều 5.2 và Điều 5.4 của Hiệp định TBT liên quan đến giới hạn về yêu cầu thông tin, bảo vệ quyền lợi thương mại chính đáng và sự đầy đủ các thủ tục thẩm định, các Bên phải giải thích các vấn đề sau theo yêu cầu của một Bên khác:

(a) thông tin được yêu cầu cần thiết như thế nào đối với việc đánh giá hợp quy và xác định lệ phí;

(b) các Bên làm thế nào để đảm bảo tính bảo mật của các thông tin mà vẫn đảm bảo các lợi ích thương mại hợp pháp được bảo vệ; và

(c) các thủ tục để xem xét các khiếu nại liên quan đến hoạt động của quy trình đánh giá hợp quy và hành động khắc phục nếu khiếu nại đó hợp lý.

  1. Tiếp theo Điều 6.4 của Hiệp định TBT, khi một Bên duy trì các thủ tục, tiêu chuẩn, điều kiện khác theo quy định tại khoản 1 và đòi hỏi phải có kết quả kiểm tra, chứng nhận, và/hoặc kiểm tra để đảm bảo rằng một sản phẩm phù hợp với một tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật, Bên đó:

(a) không được yêu cầu tổ chức đánh giá hợp quy có nhiệm vụ thử nghiệm hoặc xác nhận sản phẩm, hoặc tổ chức đánh giá hợp quy có nhiệm vụ kiểm tra phải nằm trong lãnh thổ của mình;

(b) không được yêu cầu các tổ chức đánh giá hợp quy nằm ngoài lãnh thổ của mình phải mở văn phòng trong lãnh thổ của mình; và

(c) phải cho phép các tổ chức đánh giá hợp quy trong lãnh thổ của các Bên khác đăng ký một giấy chứng nhận tuân thủ các quy trình, tiêu chuẩn, điều kiện khác mà Bên mình đòi hỏi để một tổ chức đánh giá hợp quy được xem là đủ điều kiện hoặc để chấp thuận cho tổ chức đánh giá hợp quy thử nghiệm hoặc chứng nhận sản phẩm hoặc tiến hành kiểm tra.

  1. Khoản 1 và 4(c) không ngăn cản một Bên áp dụng các hiệp định công nhận lẫn nhau để chứng nhận, phê duyệt, cấp phép hoặc công nhận dưới hình thức khác các tổ chức đánh giá hợp quy nằm ngoài lãnh thổ của mình tuân thủ các nghĩa vụ theo Hiệp định TBT.
  2. Khoản 1, 4 và 5 không ngăn cản một Bên xác minh các kết quả của thủ tục đánh giá hợp quy do các tổ chức đánh giá hợp quy nằm ngoài lãnh thổ của mình thực hiện.
  3. Tiếp theo khoản 6, nhằm tăng cường độ tin cậy của các kết quả đánh giá hợp quy được cung cấp từ lãnh thổ của nhau, các Bên có thể yêu cầu thông tin về các vấn đề liên quan đến tổ chức đánh giá hợp quy bên ngoài lãnh thổ của mình.
  4. Tiếp theo Điều 9.1 của Hiệp định TBT, một Bên phải xem xét áp dụng các quy định để phê duyệt các tổ chức đánh giá hợp quy được chứng nhận các quy chuẩn hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật của Bên nhập khẩu bởi một cơ quan chứng nhận là một bên tham gia một thỏa thuận công nhận lẫn nhau quốc tế hoặc khu vực. 1 Các Bên thừa nhận rằng các thỏa thuận này có thể giải quyết những cân nhắc quan trọng trong việc phê duyệt tổ chức đánh giá hợp quy, bao gồm năng lực kỹ thuật, tính độc lập, và tránh các xung đột lợi ích.
  5. Tiếp theo Điều 9.2 của Hiệp định TBT, một Bên không được từ chối chấp nhận, hoặc có những hành động có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, yêu cầu hoặc khuyến khích các Bên khác hoặc người khác từ chối chấp nhận kết quả đánh giá hợp quy từ một tổ chức đánh giá hợp quy vì lý do cơ quan chứng nhận đã chứng nhận tổ chức đánh giá hợp quy đó:

(a) hoạt động trong lãnh thổ của một Bên trong đó có nhiều hơn một cơ quan chứng nhận;

(b) là một tổ chức phi chính phủ;

(c) đặt tại lãnh thổ của một Bên không duy trì thủ tục công nhận cơ quan chứng nhận 2;

(d) không mở một văn phòng trong lãnh thổ của Bên đó; hoặc

(e) hoạt động vì lợi nhuận.

  1. Để giải thích rõ hơn, khoản 9 không cấm một Bên từ chối kết quả đánh giá hợp quy do một tổ chức đánh giá hợp quy cung cấp nếu có thể chứng minh cho việc từ chối đó, với điều kiện việc từ chối phù hợp với Hiệp định TBT và Chương này.
  2. Một Bên phải công bố, tốt nhất bằng phương tiện điện tử, mọi thủ tục, tiêu chuẩn, điều kiện khác mà Bên đó có thể sử dụng làm cơ sở cho việc xác định tổ chức đánh giá hợp quy đủ năng lực để được chứng nhận, phê duyệt, cấp phép, hoặc công nhận dưới hình thức khác, bao gồm trường hợp được công nhận theo các hiệp định về công nhận lẫn nhau.
  3. Trường hợp một bên chứng nhận, phê duyệt, cấp phép hoặc thừa nhận dưới hình thức khác các tổ chức đánh giá hợp quy dựa trên một quy chuẩn hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật cụ thể trong lãnh thổ của mình, và từ chối chứng nhận, phê duyệt, cấp phép, hoặc thừa nhận dưới hình thức khác một tổ chức đánh giá hợp quy dựa trên cùng một quy chuẩn hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật cụ thể trong lãnh thổ một Bên khác, hoặc từ chối áp dụng một thỏa thuận công nhận lẫn nhau, Bên đó phải giải thích lý do từ chối theo yêu cầu của Bên kia.
  4. Trường hợp một Bên không chấp nhận kết quả của một quy trình đánh giá hợp quy được thực hiện trong lãnh thổ của một Bên khác, Bên đó phải giải thích lý do cho quyết định của mình theo yêu cầu của Bên kia.
  5. 14. Tiếp theo Điều 6.3 của Hiệp định TBT, trường hợp một Bên từ chối một yêu cầu của một Bên khác về việc tham gia đàm phán để ký kết một thỏa thuận công nhận lẫn nhau về kết quả của đánh giá hợp quy của nhau, Bên đó phải giải thích lý do cho quyết định của mình [thêm khoảng trống] theo yêu cầu của Bên kia.
  6. Tiếp theo Điều 5.2.5 của Hiệp định TBT, mọi khoản phí đánh giá hợp quy do một Bên áp đặt phải giới hạn trong khoảng chi phí ước tính của các dịch vụ được cung ứng.
  7. Không Bên nào được yêu cầu đánh giá hợp quy phải kèm theo giao dịch lãnh sự, bao gồm cả chi phí liên quan 3.

Điều 8.7: Sự minh bạch [thêm hai chấm]

  1. Mỗi Bên phải cho phép người của các Bên khác tham gia vào quá trình xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, và quy trình đánh giá hợp quy do các cơ quan trung ương của mình thực hiện4. Mỗi Bên phải cho phép người của các Bên khác tham gia vào quá trình xây dựng các biện pháp không kém thuận lợi hơn các biện pháp áp dụng với người của Bên mình.
  2. Mỗi Bên được khuyến khích xem xét các phương pháp tăng cường minh bạch trong quá trình xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy, kể cả thông qua việc sử dụng các công cụ điện tử và hướng tới việc tham gia hoặc tham vấn của cộng đồng.
  3. Nếu phù hợp, mỗi Bên phải khuyến khích các tổ chức phi chính phủ trong lãnh thổ của mình tuân thủ yêu cầu tại khoản 1 và khoản 2.
  4. Mỗi Bên phải công bố tất cả các đề xuất về quy trình đánh giá hợp quy và quy chuẩn kỹ thuật mới, đề xuất sửa đổi các quy trình đánh giá hợp quy và quy chuẩn kỹ thuật hiện có, các quy trình đánh giá hợp quy và quy chuẩn kỹ thuật chính thức và sửa đổi chính thức của các quy trình đánh giá hợp quy và quy chuẩn kỹ thuật hiện có của các cơ quan trung ương.

4. bis. Để giải thích rõ hơn, đề xuất về các quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy có thể bao gồm nhưng không giới hạn trong các hình thức sau theo quyết định của Bên đó: các đề xuất về chính sách; tài liệu thảo luận; tóm tắt các quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy; hoặc các văn bản dự thảo quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy được đề xuất. Mỗi Bên bảo đảm các đề xuất đó có đầy đủ chi tiết về các nội dung có thể có của các quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy được đề xuất để thông báo đầy đủ cho những người quan tâm và các Bên khác về việc lợi ích thương mại của họ có bị ảnh hưởng hay không và bị ảnh hưởng như thế nào.

4. ter. Mỗi Bên phải công bố, tốt nhất bằng phương tiện điện tử, trên một tạp chí chính thức hoặc trên website tất cả các đề xuất về quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy mới, các đề xuất sửa đổi các quy định kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy hiện có, bản chính thức của các quy định kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy mới và sửa đổi của các cơ quan trung ương mà Bên đó phải thông báo hoặc công bố theo Hiệp định TBT hoặc Chương này và có thể có tác động đáng kể đối với thương mại.5

  1. Mỗi Bên phải thực hiện các biện pháp hợp lý trong khả năng nhằm đảm bảo rằng tất cả các đề xuất về quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy mới, đề xuất về sửa đổi các quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy hiện có, và các quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy chính thức và sửa đổi chính thức của các quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy hiện có của của chính quyền địa phương cấp dưới trực tiếp của các cơ quan trung ương được công bố.

5. bis. Mỗi Bên bảo đảm rằng các quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy chính thức và sửa đổi chính thức của các quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy hiện có của chính quyền địa phương cấp dưới trực tiếp của các cơ quan trung ương có thể được truy cập thông qua trang các trang web hoặc tạp chí chính thức, tốt nhất là một trang web tổng hợp duy nhất, trong phạm vi có thể áp dụng cho các đề xuất về quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy mới và sửa đổi.

  1. Mỗi Bên phải thông báo cho các thành viên WTO theo các thủ tục quy định tại Điều 2.9 và Điều 5.6 của Hiệp định TBT về các đề xuất về quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy mới tuân thủ các nội dung kỹ thuật của tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn hoặc khuyến nghị có liên quan, nếu có, và có thể có tác động đáng kể đối với thương mại.

6. bis. Bất kể quy định tại khoản 6, trong trường hợp phát sinh hoặc có nguy cơ phát sinh vấn đề khẩn cấp về an toàn, sức khỏe, bảo vệ môi trường, an ninh quốc gia đối với một Bên, Bên đó có thể thông báo cho các thành viên WTO về quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá hợp quy mới tuân thủ các nội dung kỹ thuật của tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn hay khuyến nghị liên quan, nếu có, khi thông qua quy chuẩn hay thủ tục này theo các thủ tục quy định tại Điều 2.10 hoặc Điều 5.7 của Hiệp định TBT.

  1. Mỗi Bên phải nỗ lực thông báo cho các thành viên WTO về các đề xuất về quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy mới của chính quyền địa phương cấp dưới trực tiếp của các cơ quan trung ương tuân thủ các nội dung kỹ thuật của tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn hoặc khuyến nghị có liên quan, nếu có, và có thể có tác động đáng kể đối với thương mại.
  2. Để xác định một quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá hợp quy được đề xuất có thể có một “tác động đáng kể đối với thương mại của các Thành viên khác” hay không và có cần phải được thông báo theo Điều 2.9, Điều 2.10, Điều 3.2, Điều 5.6, Điều 5.7 hoặc Điều 7.2 của Hiệp định TBT hoặc Chương này hay không, mỗi Bên phải xem xét các Quyết định và khuyến nghị liên quan được thông qua bởi Ủy ban của WTO về rào cản kỹ thuật đối với thương mại từ ngày 1 tháng 1 năm 1995 (G/TBT/1/Rev. 10) cùng với các tài liệu khác.
  3. Bên công bố và nộp một thông báo theo Điều 2.9, Điều 3.2, Điều 5.6 hoặc Điều 7.2 của Hiệp định TBT hoặc Chương này có trách nhiệm:

(a) giải thích về các mục tiêu của đề xuất và làm thế nào đề xuất có thể đạt được những mục tiêu đó trong thông báo; và

(b) gửi các thông báo và đề nghị bằng định dạng điện tử cho các Bên khác thông qua đầu mối hỏi đáp của các Bên được thành lập theo Điều 10 của Hiệp định TBT đồng thời với thông báo gửi cho các thành viên WTO.

  1. Mỗi Bên phải cho một khoảng thời gian 60 ngày sau khi gửi đề xuất theo khoản 9 cho một Bên khác hoặc một người có liên quan của một Bên khác để đóng góp ý kiến ​​bằng văn bản về đề xuất này. Một Bên phải xem xét yêu cầu hợp lý của một Bên khác hoặc một người có liên quan của một Bên khác về việc kéo dài thời hạn góp ý. Một Bên được khuyến khích cho một thời hạn dài hơn 60 ngày, chẳng hạn 90 ngày, nếu có thể.
  2. Mỗi Bên được khuyến khích cung cấp đủ thời gian từ khi kết thúc thời hạn góp ý đến thời điểm thông qua quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá hợp quy được thông báo để xem xét và chuẩn bị phản hồi các ý kiến ​​nhận được.
  3. Mỗi Bên phải nỗ lực để thông báo cho các thành viên WTO văn bản chính thức của quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá hợp quy tại thời điểm văn bản được thông qua hoặc được công bố như một phụ lục cho thông báo ban đầu về biện pháp được đề xuất theo Điều 2.9, Điều 3.2, Điều 5.6 hoặc Điều 7.2 của Hiệp định TBT hoặc Chương này.
  4. Một Bên nộp thông báo theo Điều 2.10 hoặc Điều 5.7 của Hiệp định TBT và Chương này phải đồng thời gửi thông báo và văn bản điện tử của quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá hợp quy đến các Bên khác thông qua các đầu mối hỏi đáp nêu tại khoản 9(b).
  5. Chậm nhất là ngày công bố của quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá hợp quy chính thức, vốn có thể có tác động đáng kể đến thương mại, mỗi Bên, tốt nhất là bằng phương tiện điện tử, phải: 6

(a) công bố giải thích về các mục tiêu và làm thế nào quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy chính thức đạt được các mục tiêu này;

(b) cung cấp càng sớm càng tốt, nhưng không muộn hơn 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu từ một Bên, mô tả các phương pháp thay thế mà Bên đó xem xét trong quá trình xây dựng quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá hợp quy chính thức, nếu có, và những ưu điểm của phương pháp được lựa chọn;

(c) công bố phản hồi của Bên mình đối với các vấn đề lớn hoặc quan trọng trong các ý kiến ​​nhận được về quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá hợp quy được đề xuất; và

(d) cung cấp càng sớm càng tốt, nhưng không muộn hơn 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu từ một Bên, mô tả các sửa đổi đáng kể, nếu có, của đề xuất về quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá hợp quy mà Bên đó thực hiện, bao gồm cả những thay đổi được thực hiện theo các ý kiến đóng góp.

  1. Tiếp theo Phụ lục 3 (J) của Hiệp định TBT, mỗi Bên bảo đảm rằng chương trình công tác của cơ quan trung ương về tiêu chuẩn hóa, trong đó có các tiêu chuẩn đang được biên soạn và các tiêu chuẩn đã được thông qua được công bố trên trang web của cơ quan trung ương về tiêu chuẩn hóa đó hoặc trang web nêu tại khoản 4ter Điều này.

Điều 8.8: Thời gian tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá hợp quy

  1. Trong phạm vi áp dụng Điều 2.12 và Điều 5.9 của Hiệp định TBT, thuật ngữ “khoảng thời gian nghỉ hợp lý” thường là một khoảng thời gian không ít hơn sáu tháng, trừ trường hợp khoảng thời gian đó không có hiệu quả trong việc thực hiện các mục tiêu hợp pháp.
  2. Nếu khả thi và phù hợp, mỗi Bên phải nỗ lực để cho phép một khoảng thời gian nghỉ dài hơn sáu tháng giữa thời điểm công bố các quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy chính thức và thời điểm các quy chuẩn, quy trình này có hiệu lực.
  3. Để giải thích rõ hơn các khoản 1 và 2, khi thiết lập một “khoảng thời gian nghỉ hợp lý” cho một quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá hợp quy cụ thể, mỗi Bên phải cho nhà cung cấp một khoảng thời gian hợp lý tùy theo từng trường hợp để chứng minh sự phù hợp của hàng hoá mình với các yêu cầu liên quan của quy chuẩn hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật trước ngày có hiệu lực của quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá hợp quy. Khi đó, mỗi Bên phải xem xét các nguồn lực sẵn có cho nhà cung cấp.

Điều 8.9: Tạo thuận lợi cho thương mại và hợp tác

  1. Tiếp theo Điều 5, Điều 6 và Điều 9 của Hiệp định TBT, các Bên thừa nhận rằng có một loạt các cơ chế tồn tại để tạo thuận lợi cho việc chấp nhận kết quả đánh giá hợp quy. Về vấn đề này, một Bên có thể:

(a) thực hiện công nhận lẫn nhau về kết quả của các quy trình đánh giá hợp quy được thực hiện bởi các cơ quan nằm trong lãnh thổ của nhau đối với các quy chuẩn kỹ thuật cụ thể;

(b) công nhận các thỏa thuận công nhận lẫn nhau trong khu vực và quốc tế giữa các cơ quan chứng nhận hoặc tổ chức đánh giá hợp quy hiện có;

(c) áp dụng chứng nhận để chọn lọc các tổ chức đánh giá hợp quy, đặc biệt là các hệ thống chứng nhận quốc tế;

(d) chỉ định tổ chức đánh giá hợp quy hoặc công nhận các tổ chức đánh giá hợp quy do Bên khác chỉ định;

(e) đơn phương công nhận kết quả của quy trình đánh giá hợp quy được thực hiện trong lãnh thổ của Bên kia; và

(f) chấp nhận tuyên bố hợp quy của một nhà cung cấp.

  1. Các Bên thừa nhận có một loạt các cơ chế tồn tại để hỗ trợ liên kết pháp lý tốt hơn và loại bỏ các rào cản kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại trong khu vực, bao gồm:

(a) đối thoại và hợp tác nhằm:

(i) trao đổi thông tin về các phương pháp và thực tiễn quản lý;

(ii) thúc đẩy việc sử dụng các thông lệ quản lý tốt để nâng cao hiệu quả của các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, và quy trình đánh giá hợp quy;

(iii) tư vấn và hỗ trợ kỹ thuật, theo các điều khoản đã thỏa thuận, để cải thiện thực tiễn liên quan đến việc xây dựng, thực hiện và thẩm định các quy định tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình đánh giá hợp quy và đo lường; hoặc

(iv) hỗ trợ và hợp tác kỹ thuật, theo các điều khoản đã thoả thuận, để xây dựng năng lực và hỗ trợ việc thực hiện Chương này;

(b) sự liên kết lớn hơn của tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế có liên quan, trừ trường hợp không phù hợp hoặc không hiệu quả;

(c) tạo thuận lợi cho việc áp dụng nhiều hơn các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn và khuyến nghị có liên quan làm cơ sở cho các quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy; và

(d) thúc đẩy việc chấp nhận các quy chuẩn kỹ thuật tương đương của một Bên khác.

  1. Đối với các cơ chế được liệt kê tại các khoản 1 và 2, các Bên thừa nhận rằng sự lựa chọn của cơ chế phù hợp trong một bối cảnh pháp lý nhất định sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như sản phẩm và lĩnh vực có liên quan, khối lượng và định hướng của thương mại, các mối quan hệ giữa các nhà làm luật của các Bên, các mục tiêu hợp pháp và nguy cơ không thực hiện được những mục tiêu đó.
  2. Các Bên phải tăng cường trao đổi và hợp tác trên các cơ chế để tạo điều kiện cho việc chấp nhận kết quả đánh giá hợp quy, hỗ trợ liên kết pháp lý tốt hơn, và loại bỏ các rào cản kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại trong khu vực.
  3. Một Bên sẽ xem xét cẩn trọng mọi đề xuất hợp tác trong lĩnh vực cụ thể theo Chương này theo yêu cầu của một Bên khác.
  4. Tiếp theo Điều 2.7 của Hiệp định TBT, một Bên phải giải thích lý do tại sao Bên đó không chấp nhận một quy chuẩn kỹ thuật của một Bên khác là tương đương theo yêu cầu của Bên đó.
  5. Các Bên phải khuyến khích hợp tác giữa các tổ chức chịu trách nhiệm về tiêu chuẩn hóa, đánh giá hợp quy, chứng nhận và đo lường của mình, bất kể các tổ chức này là công hay tư, nhằm giải quyết các vấn đề nêu trong Chương này.

Điều 8.10: Trao đổi thông tin và thảo luận kỹ thuật

  1. Một Bên có quyền yêu cầu một Bên khác cung cấp thông tin về các vấn đề phát sinh theo Chương này. Bên được yêu cầu phải cung cấp thông tin đó trong một thời hạn hợp lý, và nếu có thể, bằng phương tiện điện tử.
  2. Một Bên có quyền yêu cầu thảo luận kỹ thuật với một Bên khác nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh theo Chương này.

2. bis. Một Bên có thể yêu cầu thảo luận kỹ thuật với một Bên khác về các quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá hợp quy của chính quyền địa phương cấp dưới trực tiếp của các cơ quan trung ương nếu thấy các quy chuẩn, tiêu chuẩn đó có thể có tác động đáng kể đối với thương mại,.

  1. Các bên liên quan sẽ thảo luận các vấn đề được nêu trong vòng 60 ngày kể từ ngày yêu cầu. Nếu Bên yêu cầu tin rằng đó là vấn đề khẩn cấp thì có thể yêu cầu thảo luận trong một thời gian hạn ngắn hơn. Trong trường hợp đó, Bên được yêu cầu phải tích cực xem xét yêu cầu đó.
  2. Các Bên phải nỗ lực giải quyết vấn đề càng nhanh càng tốt dù hiểu rằng thời gian cần thiết để giải quyết một vấn đề sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, và không phải mọi vấn đề đều có thể giải quyết thông qua các cuộc thảo luận kỹ thuật.
  3. Trừ trường hợp các bên tham gia thảo luận kỹ thuật có thỏa thuận khác, các cuộc thảo luận và các thông tin được trao đổi trong quá trình thảo luận phải được bảo mật và không phương hại đến quyền và nghĩa vụ của các Bên tham gia theo Hiệp định này, Hiệp định WTO, hoặc bất kỳ hiệp định nào khác mà hai Bên tham gia.
  4. Yêu cầu cung cấp thông tin hoặc thảo luận kỹ thuật và liên lạc sẽ được chuyển tải thông qua các Điều phối viên phụ trách Chương tương ứng.

Điều 8.11: Ủy ban về Rào cản kỹ thuật đối với thương mại

  1. Các bên đồng thành lập Ủy ban về Rào cản kỹ thuật đối với thương mại (sau đây gọi là “Ủy ban”), trong đó bao gồm các đại diện của mỗi Bên.
  2. Thông qua các Ủy ban, các bên sẽ tăng cường công tác phối hợp trong các lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật, quy trình đánh giá hợp quy và tiêu chuẩn nhằm tạo thuận lợi cho thương mại giữa các Bên.
  3. Các chức năng của Ủy ban có thể bao gồm:

(a) giám sát việc thực hiện và hoạt động của Chương này, bao gồm các Phụ lục kèm theo và bất kỳ cam kết nào khác được thoả thuận theo Chương này, và xác định các sửa đổi có thể có hoặc giải thích các cam kết đó theo quy định của Chương 27 (Điều khoản về hành chính và thể chế);

(b) giám sát các cuộc thảo luận kỹ thuật về các vấn đề phát sinh theo Chương này được yêu cầu theo khoản 2 hoặc 2bis của Điều 8.10 (Trao đổi thông tin và thảo luận kỹ thuật);

(c) đồng ý với các lĩnh vực ưu tiên được quan tâm lẫn nhau cho công việc trong tương lai theo Chương này và xem xét đề xuất về các sáng kiến thuộc lĩnh vực cụ thể hoặc sáng kiến khác;

(d) khuyến khích hợp tác giữa các Bên trong các vấn đề liên quan đến Chương này, bao gồm cả việc xây dựng, thẩm định, hoặc sửa đổi các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy;

(e) khuyến khích hợp tác giữa các tổ chức phi chính phủ trong lãnh thổ các Bên cũng như hợp tác giữa các cơ quan chính phủ và tổ chức phi chính phủ trong lãnh thổ các Bên trong các vấn đề liên quan đến Chương này;

(f) tạo thuận lợi cho việc xác định các nhu cầu năng lực kỹ thuật;

(g) khuyến khích việc trao đổi thông tin giữa các Bên và các tổ chức phi chính phủ có liên quan, nếu phù hợp, về việc phát triển của phương pháp chung về các vấn đề được thảo luận trong các cơ quan phi chính phủ, khu vực, đa phương hoặc các hệ thống xây dựng tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị, chính sách và các quy trình khác liên quan đến Chương này;

 (h) theo yêu cầu một Bên, khuyến khích trao đổi thông tin giữa các Bên liên quan đến các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy cụ thể của các nước ngoài khối TPP cũng như các vấn đề mang tính hệ thống nhằm xây dựng các phương pháp chung;

(i) thực hiện các bước khác mà các Bên cho rằng có thể hỗ trợ mình trong việc thực hiện Chương này và Hiệp định TBT;

(j) rà soát lại Chương này sau khi xem xét tiến triển theo Hiệp định TBT, đề xuất sửa đổi của Chương sau khi xem xét các tiến triển đó; và

(k) báo cáo với Ủy ban TPP về việc thực hiện và hoạt động của Chương này.

  1. Ủy ban có thể thành lập các tổ công tác để thực hiện các chức năng này.
  2. Mỗi Bên chỉ định một Điều phối viên phụ trách Chương, và cung cấp cho các Bên khác tên của Điều phối viên phụ trách Chương của mình, thông tin liên lạc của các công chức liên quan trong tổ chức đó, bao gồm số điện thoại, fax, email và các thông tin liên quan.
  3. Một Bên phải kịp thời thông báo cho Bên kia mọi thay đổi của Điều phối viên phụ trách Chương của mình hoặc thay đổi về thông tin của các công chức liên quan.
  4. Trách nhiệm của mỗi Điều phối viên phụ trách Chương bao gồm:

(a) liên lạc với Điều phối viên phụ trách Chương của các Bên khác, bao gồm hỗ trợ các cuộc thảo luận, yêu cầu và trao đổi thông tin kịp thời về các vấn đề phát sinh theo Chương này;

(b) liên lạc và điều phối các cơ quan nhà nước có liên quan, bao gồm cơ quan quản lý, trong lãnh thổ của mình về những vấn đề liên quan liên quan đến Chương này;

(c) tham vấn và, nếu phù hợp, phối hợp với những người quan tâm trong lãnh thổ của mình về những vấn đề liên quan liên quan đến Chương này; và

(d) các trách nhiệm khác do Ủy ban giao.

  1. Ủy ban phải họp trong vòng một năm kể từ ngày có hiệu lực của Hiệp định này và sau đó theo thỏa thuận của các bên. Ủy ban sẽ thực hiện công việc của mình thông qua các phương tiện thông tin do các Bên thỏa thuận, trong đó có thể bao gồm e-mail, họp qua điện thoại, họp bằng video, các cuộc họp bên lề các diễn đàn khu vực và quốc tế khác, hoặc các phương tiện khác.
  2. Ủy ban sẽ ra quyết định theo sự đồng thuận.
  3. Khi xác định những hoạt động Ủy ban cần thực hiện, các Bên sẽ xem xét công việc đang được thực hiện ở các diễn đàn khác nhằm đảm bảo không trùng lặp với hoạt động của Ủy ban.

Điều 8.12: Phụ lục

  1. Trừ các Phụ lục về Công thức độc quyền cho thực phẩm đóng gói sẵn và phụ gia thực phẩm, sản phẩm mỹ phẩm, thiết bị y tế và dược phẩm có phạm vi áp dụng được quy định trong từng Phụ lục tương ứng, các Phụ lục sẽ có phạm vi áp dụng như quy định tại Điều 8.2: Phạm vi áp dụng đối với sản phẩm được quy định trong từng Phụ lục có liên quan.
  2. Các quyền và nghĩa vụ quy định tại từng Phụ lục của chương này chỉ áp dụng cho các lĩnh vực quy định trong Phụ lục được áp dụng và sẽ không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của bất kỳ Bên nào theo một Phụ lục khác.
  3. Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, trong vòng 05 năm kể từ ngày có hiệu lực của Hiệp định này, và ít nhất một lần mỗi 05 năm sau đó, Ủy ban có trách nhiệm:

(a) rà soát việc thực hiện các Phụ lục nhằm củng cố, hoàn thiện, và nếu phù hợp, kiến ​​nghị để tăng cường sự liên kết của các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy tương ứng của các Bên trong các lĩnh vực thuộc phạm vi của các Phụ lục; và

(b) xem xét việc xây dựng các phụ lục liên quan đến các lĩnh vực khác có tiếp tục theo đuổi các mục tiêu của Chương này hoặc Hiệp định này hay không, và quyết định xem có nên đề xuất với Ủy ban TPP khởi động đàm phán để ký kết các phụ lục điều chỉnh các lĩnh vực đó hay không.

———————————————————

1 Ủy ban về Rào cản kỹ thuật đối với thương mại có trách nhiệm xây dựng và duy trì một danh sách các thỏa thuận đó.

2 với điều kiện là các cơ quan chứng nhận được quốc tế thừa nhận phù hợp với quy định tại khoản 8.

3 Để giải thích rõ hơn, khoản này sẽ không áp dụng đối với Bên xác minh tài liệu đánh giá hợp quy trong quá trình cấp phép hoặc tái cấp phép lưu hành.

4 Một Bên hoàn thành nghĩa vụ này bằng cách, ví dụ,  cho những người quan tâm một cơ hội hợp lý để đóng góp ý kiến đối với biện pháp được đề xuất và xem xét những ý kiến này khi xây dựng biện pháp.

5 Để giải thích rõ hơn, một Bên có thể hoàn thành nghĩa vụ này bằng cách đảm bảo rằng tất cả các đề xuất về quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy mới, đề xuất sửa đổi các quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy hiện có, và bản chính thức tất cả các quy chuẩn kỹ thuật mới và sửa đổi mà một Bên phải thông báo hoặc công bố theo Hiệp định TBT hoặc chương này, và có thể có tác động đáng kể đối với thương mại, được công bố hoặc có thể truy cập trên trang web chính thức của WTO.

6 Để giải thích rõ hơn, không Bên nào được yêu cầu cung cấp một mô tả các phương pháp thay thế hoặc sửa đổi đáng kể trong các điểm (b) hoặc (d) trước ngày công bố của quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy trình đánh giá hợp quy chính thức.


 

CHƯƠNG 9

ĐẦU TƯ

Mục A

Điều 9.1: Giải thích từ ngữ

Trong Chương này, các từ ngữ được hiểu như sau:

Trung tâm là Trung tâm Giải quyết Tranh chấp Đầu tư Quốc tế được thành lập theo Công ước của Trung tâm Giải quyết Tranh chấp Đầu tư Quốc tế (Công ước ICSID);

Nguyên đơn là một nhà đầu tư của một Bên tham gia Hiệp định TPP có tranh chấp trong hoạt động đầu tư với một Bên tham gia khác. Nếu nhà đầu tư là một cá nhân cư trú tại một Bên tham gia Hiệp định TPP nhưng mang quốc tịch của một Bên khác, cá nhân đó không được phép nộp hồ sơ khởi kiện theo thủ tục trọng tài đối với Bên mình đang mang quốc tịch; 

Đầu tư được bảo đảm, theo quy định của mỗi Bên, là một dự án đầu tư trong phạm vi lãnh thổ của nhà đầu tư thuộc Bên khác đã thực hiện đến ngày Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực đối với các Bên tham gia, hoặc dự án đầu tư theo hình thức này đã được hình thành, mua lại hoặc mở rộng kể từ sau ngày nói trên; 

Các bên tranh chấp gồm bên nguyên đơn và bên bị đơn;

Bên tranh chấp có thể là bên nguyên đơn hoặc bên bị đơn;

Doanh nghiệp là doanh nghiệp theo quy định tại Điều 1.3 (Định nghĩa chung) và chi nhánh của một doanh nghiệp;

Doanh nghiệp của Bên tham gia Hiệp định là doanh nghiệp được thành lập hoặc được tổ chức theo quy định của Bên đó, hoặc chi nhánh doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ của Bên đó; 1 

Đồng tiền lưu thông tự do là “đơn vị tiền tệ lưu thông tự do” được xác định theo quy định của Quỹ tiền tệ quốc tế và theo Hiệp định này;

Các quy tắc trọng tài của Phòng thương mại Quốc tế (ICC) là các quy tắc trọng tài do Phòng thương mại quốc tế ban hành;

Các Quy tắc về Năng lực Bổ sung theo ICSID là các quy tắc quy định năng lực bổ sung đối với việc quản lý các vụ kiện của Ban Thư ký thuộc Trung tâm Giải quyết Tranh chấp Đầu tư Quốc tế;

Công ước ICSID là Công ước về việc giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế giữa các quốc gia thành viên và các công dân của các quốc gia thành viên được ký kết tại Washington vào ngày 18 tháng 3 năm 1965;

Công ước Liên châu Mỹ là Công ước về Trọng tài Thương mại Quốc tế liên châu Mỹ được ký kết tại Panama vào ngày 30 tháng 1 năm 1975;

Hoạt động/dự án đầu tư là toàn bộ tài sản do một nhà đầu tư trực tiếp hay gián tiếp sở hữu và quản lý mang đặc điểm của một khoản đầu tư, bao gồm những đặc điểm theo đúng cam kết về vốn hoặc nguồn vốn khác, đặc điểm về mức doanh thu hay lợi nhuận kỳ vọng hoặc khả năng chấp nhận rủi ro.  Các hình thức đầu tư bao gồm:

(a) doanh nghiệp;

(b) cổ phần, cổ phiếu và các dạng góp vốn tham gia vào doanh nghiệp;

(c) trái phiếu, tín phiếu, các công cụ nợ khác và các khoản vay; 2, 3

(d) các hợp đồng tương lai, quyền chọn và các hợp đồng phái sinh khác;

(e) đầu tư theo hình thức chìa khóa trao tay, xây dựng, quản lý, sản xuất, nhượng quyền, chia sẻ doanh thu và các hợp đồng khác;

(f) quyền sở hữu trí tuệ;

(g) giấy chứng nhận, ủy quyền, giấy phép và các quyền tương tự theo quy định của luật pháp của Bên tham gia Hiệp định; 4 và

(h) tài sản hữu hình hoặc vô hình, tài sản di động hoặc bất động và quyền tài sản liên quan bao gồm cho thuê, thế chấp, cầm cố và bảo lãnh.

Tuy nhiên, khoản đầu tư không bao gồm các quyết định hay phán quyết tư pháp hay hành chính.

Hợp đồng đầu tư là văn bản thỏa thuận5 được ký kết và có hiệu lực sau ngày ban hành Hiệp định này6 giữa một cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương7 của một Bên tham gia Hiệp định và một dự án đầu tư được bảo đảm hoặc một nhà đầu tư của Bên kia; là văn bản thỏa thuận tạo ra sự trao đổi về quyền và nghĩa vụ của cả hai bên theo quy định hiện hành và quy định trong Điều 9.24 (2) (Luật pháp áp dụng) mà dự án đầu tư được bảo đảm hoặc nhà đầu tư căn cứ vào đó để lập hoặc mua lại một dự án đầu tư bảo đảm khác không thuộc văn bản thỏa thuận này; là văn bản thỏa thuận trao quyền cho một  dự án đầu tư được bảo đảm hoặc nhà đầu tư:  

(a) liên quan đến tài nguyên thiên nhiên của một cơ quan quản lý nhà nước của một quốc gia như dầu khí, các loại khoáng sản quý hiếm trong đất, gỗ, vàng, quặng sắt và các nguồn tài nguyên tương tự, 8 trong đó bao gồm các hoạt động thăm dò, khai thác, sàng lọc, vận chuyển, phân phối hoặc bán khoáng sản;

(b) nhằm mục đích thay mặt cho một Bên tham gia Hiệp định cung ứng các dịch vụ công ích như sản xuất hoặc phân phối điện và xử lý và phân phối nước cho nhu cầu của toàn dân, viễn thông, hoặc các dịch vụ tương tự do tổ chức đầu tư được bảo đảm hay nhà đầu tư cá nhân đại diện cho một Bên cung cấp nhằm đáp ứng nhu cầu dịch vụ công ích của người dân; 9 hoặc

(c) nhằm phụ trách thực hiện các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng như dự án xây dựng cầu đường, kênh mương, ống dẫn nước hoặc các dự án tương tự khác trong trường hợp các cơ sở hạ tầng này không phục vụ cho mục đích sử dụng và lợi ích riêng của chính phủ; 

Cấp phép đầu tư 10 là việc cơ quan có thẩm quyền quản lý đầu tư nước ngoài của một Bên11 cấp phép cho dự án đầu tư bảo đảm hoặc nhà đầu tư cá nhân của một Bên khác;

Nhà đầu tư của Bên không tham gia Hiệp định đối với một Bên tham gia Hiệp định là nhà đầu tư đang cố gắng thực hiện 12, đang thực hiện hoặc đã thực hiện đầu tư trong lãnh thổ của Bên đó và không phải là nhà đầu tư thuộc Bên tham gia Hiệp định;

Nhà đầu tư của Bên tham gia Hiệp định là một Bên, công dân hoặc doanh nghiệp của một Bên đang cố gắng thực hiện, đang thực hiện hoặc đã thực hiện đầu tư trong lãnh thổ của Bên khác;

Các quy tắc trọng tài của Tòa án Trọng tài Quốc tế Luân Đôn (LCIA) là các quy tắc trọng tài do Tòa án Trọng tài Quốc tế Luân Đôn ban hành;

Tái cơ cấu theo thỏa thuận là quá trình tái cơ cấu hoặc gia hạn một loại công cụ nợ bị tác động bởi (a) quá trình sửa đổi, bổ sung công cụ nợ theo quy định trong các điều khoản thỏa thuận, hoặc (b) quá trình giao dịch hoán đổi toàn diện các khoản nợ hoặc quá trình tương tự, trong đó người đang nắm giữ ít hơn 75% tổng số nợ gốc chưa thanh toán ghi trên công cụ nợ đó đã đồng ý thực hiện giao dịch hoán đổi nợ hoặc thực hiện các quy trình khác;

Công ước New York là Công ước về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài được ký kết tại New York vào ngày 10 tháng 6 năm 1958;

Bên không tranh chấp là một Bên không phải bên liên quan đến tranh chấp trong đầu tư;

Thông tin được bảo vệ là các thông tin kinh doanh bí mật hoặc các thông tin thuộc diện ưu tiên hoặc được bảo vệ tránh tiết lộ ra ngoài theo quy định của pháp luật của một Bên, bao gồm các thông tin của chính phủ đã được phân loại;

Bị đơn là Bên liên quan đến tranh chấp trong đầu tư;

Tổng thư ký là Tổng thư ký của ICSID; và

Các quy tắc trọng tài của Ủy ban luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) là các quy tắc trọng tài do Ủy ban luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc ban hành.

Điều 9.2: Phạm vi áp dụng

  1. Chương này áp dụng đối với các biện pháp do một Bên tham gia Hiệp định ban hành hoặc duy trì liên quan đến:

(a) nhà đầu tư của Bên khác;

(b) các dự án đầu tư được bảo đảm; và

(c) các dự án đầu tư trong lãnh thổ của Bên đó theo quy định trong Điều 9.9 (Yêu cầu thực hiện) và Điều 9.15 (Các mục tiêu quản lý đầu tư, môi trường, y tế và các mục tiêu khác).

  1. Nghĩa vụ của mỗi Bên theo quy định trong chương này áp dụng đối với các biện pháp được ban hành hoặc duy trì bởi:

(a) chính quyền cấp trung ương, khu vực hoặc địa phương hoặc các cơ quan có thẩm quyền của Bên đó; và

(b) bất kỳ cá nhân nào, kể cả doanh nghiệp nhà nước hoặc bất kỳ tổ chức nào khác được phép thực hiện thẩm quyền quản lý nhà nước theo phân cấp bởi chính quyền cấp trung ương, khu vực hoặc địa phương hoặc các cơ quan có thẩm quyền của Bên đó. 13

  1. Nhằm giải thích rõ hơn, Chương này không áp dụng đối với một Bên có liên quan đến những hoạt động hoặc sự việc đã diễn ra hoặc một tình huống đã không còn tồn tại trước ngày Hiệp định này có hiệu lực thi hành đối với Bên đó.

Điều 9.3: Mối liên hệ với các Chương khác

  1. Trong trường hợp phát sinh sự không thống nhất giữa Chương này với bất kỳ một Chương nào khác trong Hiệp định này, tùy theo mức độ không thống nhất, các quy định trong Chương khác này sẽ được áp dụng.
  2. Yêu cầu của Bên nhận trái phiếu bảo lãnh hoặc hình thức bảo lãnh tài chính khác từ nhà cung ứng dịch vụ của Bên kia làm cơ sở để thực hiện cung cấp dịch vụ qua biên giới sẽ không bảo đảm Chương này được áp dụng đối với các biện pháp đã được ban hành hoặc duy trì của Bên có liên quan đến hoạt động cung ứng dịch vụ qua biên giới đó. Chương này áp dụng đối với các biện pháp được ban hành hoặc duy trì bởi một Bên liên quan đến trái phiếu hoặc hình thức bảo lãnh tài chính khác đã gửi trong trường hợp trái phiếu hay hình thức bảo lãnh tài chính này là một khoản đầu tư bảo đảm.
  3. Chương này sẽ không áp dụng đối với các biện pháp được ban hành hoặc duy trì bởi một Bên trong trường hợp các biện pháp này được quy định trong Chương 11 (Dịch vụ tài chính).

Điều 9.4: Nguyên tắc đối xử quốc gia 14

  1. Mỗi Bên phải dành cho nhà đầu tư của Bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho nhà đầu tư của nước mình trong những hoàn cảnh tương tự đối với việc thành lập, mua lại, mở rộng, điều hành, triển khai, vận hành, kinh doanh hoặc các hình thức chuyển nhượng dự án đầu tư khác trong lãnh thổ của Bên đó.
  2. Mỗi Bên phải dành cho các dự án đầu tư được bảo đảm sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các dự án đầu tư trên lãnh thổ của chính nhà đầu tư đó trong những hoàn cảnh tương tự đối với việc thành lập, mua lại, mở rộng, điều hành, triển khai, vận hành, kinh doanh hoặc các hình thức chuyển nhượng dự án đầu tư khác.
  3. Nhằm giải thích rõ hơn, các phương thức đối xử của Bên này đồng ý áp dụng cho Bên kia theo khoản 1 và 2, xét ở cấp quản lý nhà nước khu vực, có nghĩa là các phương thức đối xử không kém hơn phương thức đối xử tối huệ được áp dụng trong các hoàn cảnh tương tự bởi cấp quản lý nhà nước khu vực đó đối với nhà đầu tư và các dự án của nhà đầu tư của một Bên.

Điều 9.5: Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc

  1. Mỗi Bên phải dành cho nhà đầu tư của Bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho nhà đầu tư của nước mình, hoặc nhà đầu tư của Bên không phải thành viên Hiệp định này trong những hoàn cảnh tương tự đối với việc thành lập, mua lại, mở rộng, điều hành, triển khai, vận hành, kinh doanh hoặc các hình thức chuyển nhượng dự án đầu tư khác trong lãnh thổ của mình.
  2. Mỗi Bên phải dành cho các dự án đầu tư được bảo đảm sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các dự án đầu tư trên lãnh thổ của chính nhà đầu tư đó hoặc nhà đầu tư của Bên không phải thành viên Hiệp định này trong những hoàn cảnh tương tự đối với việc thành lập, mua lại, mở rộng, điều hành, triển khai, vận hành, kinh doanh hoặc các hình thức chuyển nhượng dự án đầu tư khác.
  3. Nhằm giải thích rõ hơn, phương thức đối xử quy định trong Điều này không bao gồm các quy trình hoặc cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế như các quy trình hay cơ chế nêu trong Mục B.

Điều 9.6: Chuẩn mực đối xử tối thiểu 15

  1. Mỗi Bên phải dành cho các dự án đầu tư được bảo đảm các phương thức đối xử theo các nguyên tắc của công pháp quốc tế truyền thống hiện hành, bao gồm các nguyên tắc đối xử bình đẳng, công bằng và các biện pháp bảo vệ, đảm bảo an ninh toàn diện.
  2. Nhằm giải thích rõ hơn, khoản 1 quy định chi tiết chuẩn mực đối xử tối thiểu theo công pháp quốc tế truyền thống dành cho người ngoại quốc tương tự như chuẩn mực đối xử dành cho các dự án đầu tư được bảo đảm. Các nguyên tắc “đối xử công bằng, bình đẳng” và “bảo vệ, bảo đảm an ninh toàn diện” không có yêu cầu bất kỳ phương thức đối xử nào bổ sung thêm hay vượt quá chuẩn mực nói trên cũng như không thiết lập các quyền cơ bản bổ sung. Nghĩa vụ quy định trong khoản 1 với mục đích áp dụng các phương thức:

(a) “đối xử công bằng, bình đẳng” phải bao gồm nghĩa vụ không được phủ nhận tính công bằng trong xét xử các vụ án hình sự, dân sự hoặc hành chính tư pháp theo đúng với nguyên tắc quy trình tố tụng chuẩn tắc nêu trong các hệ thống pháp lý trọng yếu trên thế giới; và

(b) “bảo vệ, bảo đảm an ninh toàn diện” có yêu cầu mỗi Bên phải thực hiện các biện pháp bảo vệ của cảnh sát theo quy định trong công pháp truyền thống quốc tế.

  1. Việc xác định nếu có hành vi vi phạm một điều khoản nào khác của Hiệp định này hoặc của một hiệp định quốc tế cụ thể nào đó sẽ không chứng minh là có hành vi vi phạm đối với Điều này.
  2. Nhằm giải thích rõ hơn, trường hợp duy nhất khi một Bên thực hiện hoặc không thực hiện hành động mà có thể không phù hợp với kỳ vọng của nhà đầu tư sẽ không bị xem là cấu thành hành vi vi phạm quy định của Điều này, kể cả khi chính việc đó gây thiệt hại, tổn thất cho một dự án đầu tư được bảo đảm nhất định.
  3. Nhằm giải thích rõ hơn, trường hợp duy nhất khi một khoản trợ cấp, tài trợ đã được cấp, gia hạn hoặc duy trì, hoặc đã được sửa đổi hoặc giảm bớt bởi một Bên sẽ không bị xem là cấu thành hành vi vi phạm quy định của Điều này, kể cả khi chính việc đó gây thiệt hại, tổn thất cho một dự án đầu tư được bảo đảm nhất định.

Điều 9.6 (bis): Nguyên tắc đối xử trong trường hợp phát sinh các vụ xung đột vũ trang hoặc xung đột dân sự

  1. Bên cạnh việc tuân thủ theo các quy định trong Điều 9.11.6(b) (các biện pháp không tương thích), mỗi Bên phải dành cho các nhà đầu tư của Bên kia và các dự án đầu tư được bảo đảm những chính sách đối xử không phân biệt liên quan đến các biện pháp mà Bên đó áp dụng hoặc duy trì đối với những tổn thất của các dự án đầu tư tại lãnh thổ của Bên đó phát sinh do tình hình xung đột vũ trang hoặc dân sự.
  2. Bên cạnh việc tuân thủ các quy định trong khoản 1, nếu một nhà đầu tư của Bên này trong trường hợp quy định tại khoản 1 bị tổn thất phát sinh trong lãnh thổ của Bên kia do:

(a) trưng dụng dự án đầu tư được bảo đảm hoặc một phần dự án đó bằng sức mạnh hoặc quyền hạn của Bên kia; hoặc

(b) phá dỡ dự án đầu tư được bảo đảm hoặc một phần dự án đó bằng sức mạnh hoặc quyền hạn của Bên kia mà không xuất phát từ tính cấp thiết của tình hình.

Bên kia phải thực hiện hoàn trả và/hoặc bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư ở mức độ phù hợp.

  1. Các quy định của khoản 1 không áp dụng đối với các biện pháp hiện hành liên quan đến các khoản trợ cấp, tài trợ không phù hợp theo quy định của Điều 9.4 (Nguyên tắc đối xử quốc gia) nhưng các quy định của Điều 9.11.6 (b) (Các biện pháp không tương thích) sẽ được áp dụng cho các biện pháp này.

Điều 9.7: Thu hồi và bồi thường 16

  1. Không Bên nào được phép thu hồi hoặc quốc hữu hóa một dự án đầu tư được bảo đảm cụ thể, bất kỳ dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các biện pháp tương đương với biện pháp thu hồi hoặc quốc hữu hóa, ngoại trừ:

(a) phục vụ cho mục đích công ích17, 18;

(b) thực hiện theo cách không phân biệt đối xử;

(c) để chi trả khoản bồi thường đúng lúc, đúng số lượng và đúng thời hạn theo quy định của các khoản 2, 3 và 4; và

(d) theo đúng quy trình tố tụng chuẩn tắc quy định trong luật.

  1. Khoản bồi thường phải:

(a) được trả ngay, không trì hoãn;

(b) tương ứng với giá trị thực tế trên thị trường của dự án đầu tư bị thu hồi được xác định vào thời điểm trước khi tiến hành thu hồi (ngày tiến hành thu hồi);

(c) không được phản ảnh bất kỳ sự biến động về giá trị đang diễn ra bởi vì việc thu hồi đã được lên kế hoạch từ trước đó; và

(d) có thể chuyển đổi hoàn toàn thành tiền và tự do sang nhượng.

  1. Nếu giá trị thực tế trên thị trường được tính bằng một đơn vị tiền tệ lưu thông tự do, khoản bồi thường phải thanh toán sẽ không thấp hơn giá trị thực tế trên thị trường được xác định vào ngày tiến hành thu hồi, cộng với lãi tính theo tỷ giá thương mại hợp lý của đơn vị tiền tệ đó được lũy kế từ ngày tiến hành thu hồi cho đến ngày thực hiện chi trả.
  2. Nếu giá trị thực tế trên thị trường được tính bằng một đơn vị tiền tệ không được tự do lưu thông, khoản bồi thường phải thanh toán được chuyển đổi thành một đơn vị tiền tệ được sử dụng để thanh toán theo tỷ giá của thị trường hối đoái được xác định vào ngày tiến hành thanh toán không được phép nhỏ hơn:

(a) giá trị thực tế trên thị trường được xác định vào ngày tiến hành thu hồi được chuyển đổi từ đồng tiền lưu thông tự do theo tỷ giá hối đoái xác định vào ngày đó; cộng với

(b) tiền lãi tính theo tỷ giá thương mại hợp lý của đồng tiền lưu thông tự do được lũy kế từ ngày tiến hành thu hồi đến ngày thực hiện chi trả. 

  1. Điều này không áp dụng đối với việc cấp các giấy phép bắt buộc liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ theo đúng với Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS), hoặc không áp dụng đối với trường hợp thu hồi, hạn chế hoặc thiết lập các quyền sở hữu trí tuệ trong trường hợp việc cấp phép, thu hồi, giới hạn hoặc thiết lập các quyền này phù hợp với các quy định trong Chương 18 (Sở hữu trí tuệ) và Hiệp định TRIPS. 19
  2. Nhằm giải thích rõ hơn, quyết định không cấp mới, gia hạn hoặc duy trì mức trợ cấp hoặc hỗ trợ, hoặc quyết định sửa đổi hoặc giảm bớt mức trợ cấp hoặc hỗ trợ của một Bên tham gia Hiệp định

(a) trong trường hợp không có bất kỳ cam kết cụ thể theo quy định pháp luật hoặc không có hợp đồng cấp mới, gia hạn hoặc duy trì mức trợ cấp hay hỗ trợ đó; hoặc

(b) theo đúng với các điều khoản thỏa thuận về cấp mới, gia hạn, sửa đổi, giảm bớt hay duy trì mức trợ cấp hoặc hỗ trợ,

khi đứng riêng lẻ một mình sẽ không có hiệu lực thực hiện thu hồi.

Điều 9.8: Hoạt động chuyển nhượng 20

  1. Mỗi Bên phải cho phép chuyển nhượng dự án đầu tư được bảo đảm được thực hiện bên trong và bên ngoài lãnh thổ của mỗi Bên một cách tự do và ngay lập tức. Các hoạt động chuyển giao bao gồm:

(a) vốn góp đầu tư

(b) lợi nhuận, cổ tức, lãi, lợi nhuận thu được từ việc bán khoản đầu tư, tiền bản quyền tác giả, phí quản lý, phí hỗ trợ kỹ thuật và các loại phí khác;

(c) doanh thu từ việc bán toàn bộ hoặc một phần dự án đầu tư được bảo đảm hoặc doanh thu từ việc thanh lý một phần hay toàn bộ dự án đầu tư được bảo đảm;

(d) các khoản thanh toán theo hợp đồng, kể cả hợp đồng vay vốn; 

(e) các khoản thanh toán theo quy định của Điều 9.6bis (Nguyên tắc đối xử trong trường hợp phát sinh các vụ xung đột vũ trang hoặc xung đột dân sự) và Điều 9.7 (Thu hồi và bồi thường); và    

(f) các khoản thanh toán phát sinh ngoài tranh chấp.

  1. Mỗi Bên phải cho phép thực hiện chuyển nhượng dự án đầu tư được bảo đảm được tính bằng đơn vị tiền tệ được lưu thông tự do theo tỷ giá hối đoái trên thị trường xác định vào thời điểm thực hiện chuyển giao.
  2. Mỗi Bên phải cho phép thu nhập bằng hiện vật liên quan đến dự án đầu tư được bảo đảm được thực hiện như được cho phép hoặc quy định trong một văn bản thỏa thuận giữa Bên này và dự án đầu tư được bảo đảm hoặc nhà đầu tư của Bên kia.
  3. Bên cạnh việc tuân thủ quy định tại các khoản 1, 2 và 3, một Bên bất kỳ có thể ngăn chặn hoặc làm trì hoãn hoạt động chuyển nhượng đầu tư thông qua việc áp dụng các quy định pháp luật22 một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử và chân thành của mình đối với các trường hợp:

(a) bị phá sản, vỡ nợ hoặc để bảo vệ quyền của bên cho vay;

(b) phát hành hoặc giao dịch chứng khoán, hợp đồng tương lai, quyền chọn hoặc phái sinh; 

(c) hành vi vi phạm pháp luật hình sự hoặc các hành vi vi phạm bị xử phạt theo quy định của pháp luật;

(d) báo cáo tài chính hoặc báo cáo hạch toán các hoạt động chuyển nhượng đầu tư khi cần thiết nhằm hỗ trợ cho hoạt động của các cơ quan thực thi pháp luật hoặc cơ quan quản lý tài chính; hoặc

(e) cần bảo đảm tuân thủ theo các bản án, quyết định của toà án theo quy trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính.

  1. Bên cạnh việc tuân thủ quy định của khoản 3, một Bên bất kỳ có thể hạn chế các hoạt động chuyển nhượng các khoản thu nhập bằng hiện vật đối với các trường hợp bị hạn chế chuyển nhượng theo qui định của Hiệp định này, kể cả các hoạt động chuyển nhượng được quy định tại khoản 4.

Điều 9.9: Yêu cầu thực hiện

  1. Trong trường hợp thành lập, mua lại, mở rộng, điều hành, triển khai, vận hành, kinh doanh hoặc các hình thức chuyển nhượng dự án đầu tư mà nhà đầu tư của Bên tham gia Hiệp định hoặc của Bên không tham gia Hiệp định thực hiện trong lãnh thổ của mình, không Bên nào có quyền đặt ra hoặc đưa vào áp dụng các yêu cầu, hoặc có quyền ban hành cam kết:

(a) phải xuất khẩu một mức hoặc tỷ lệ hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định;

(b) phải đạt được một mức hoặc tỷ lệ hàm lượng nội địa nhất định;

(c) phải mua, sử dụng hoặc ưu tiên hàng hóa sản xuất trong lãnh thổ của mình, hoặc phải mua hàng hóa từ các cá nhân thuộc lãnh thổ của mình;

(d) bằng cách nào đó phải cân đối giữa khối lượng hoặc giá trị nhập khẩu với khối lượng hoặc giá trị xuất khẩu hoặc với lượng dòng tiền ngoại tệ nhập vào liên quan đến hoạt động đầu tư; 

(e) phải hạn chế doanh số bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ của dự án đầu tư trong lãnh thổ của mình bằng bất kỳ hình thức nào để cân đối doanh số này với khối lượng hoặc giá trị xuất khẩu hoặc với thu nhập bằng ngoại tệ;

(f) phải chuyển giao công nghệ, quy trình sản xuất hoặc thông tin độc quyền cho một cá nhân hoạt động trong lãnh thổ của mình;

(g) chỉ cung ứng hàng hóa, dịch vụ của dự án đầu tư từ lãnh thổ của Bên tham gia Hiệp định cho thị trường khu vực cụ thể hoặc cho thị trường toàn cầu;   

(h) (i) phải mua, sử dụng hoặc ưu tiên cho các sản phẩm công nghệ của một Bên trong lãnh thổ của mình hoặc của cá nhân thuộc một Bên tham gia Hiệp định 24; hoặc

(ii) phải ngăn chặn hoạt động thu mua hoặc sử dụng, hoặc áp dụng chế độ ưu tiên đối với một loại sản phẩm công nghệ cụ thể nào đó trong lãnh thổ của mình; hoặc

(i) phải quy định:

(i) tỷ lệ hoặc số tiền tác quyền nhất định ghi trong hợp đồng bản quyền; hoặc

(ii) thời gian hiệu lực cụ thể của hợp đồng bản quyền,

liên quan đến hợp đồng tác quyền hiện hình thành vào thời điểm nếu các yêu cầu này đặt ra hoặc đưa vào áp dụng, hoặc các cam kết này bắt đầu đi vào thực hiện, hoặc hợp đồng tác quyền hình thành trong tương lai 25 được ký kết giữa nhà đầu tư và cá nhân trong lãnh thổ của mình, sao cho các yêu cầu đó được đặt ra hoặc các cam kết được đưa vào thực hiện theo cách chi phối trực tiếp đến hợp đồng tác quyền này thông qua việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước ngoài tư pháp của Bên tham gia Hiệp định. Nhằm giải thích rõ hơn, khoản 1 (i) không có hiệu lực áp dụng đối với trường hợp hợp đồng tác quyền được ký kết giữa nhà đầu tư và Bên tham gia Hiệp định.   

  1. Không Bên nào được phép áp đặt điều kiện đối với việc nhận hoặc tiếp tục nhận ưu đãi liên quan đến việc thành lập, mua lại, mở rộng, điều hành, triển khai, vận hành, kinh doanh hoặc các hình thức chuyển nhượng dự án đầu tư của nhà đầu tư thuộc Bên tham gia Hiệp định hoặc nhà đầu tư thuộc Bên không tham gia Hiệp định trong lãnh thổ của mình theo đúng với các tiêu chí sau:
(a)

(b)

phải đạt được một mức hoặc tỷ lệ hàm lượng nội địa nhất định;

phải mua, sử dụng hoặc áp dụng chế độ ưu đãi cho hàng hóa sản xuất trong lãnh thổ của mình, hoặc phải

mua hàng hóa của các cá nhân trong lãnh thổ của mình;
(c) bằng cách nào đó phải cân đối khối lượng hoặc giá trị nhập khẩu với khối lượng hoặc giá trị xuất khẩu hoặc với lượng dòng tiền ngoại tệ nhập vào liên quan đến hoạt động đầu tư; hoặc
(d) phải hạn chế doanh số bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ của dự án đầu tư trong lãnh thổ của mình bằng bất kỳ hình thức nào để cân đối doanh số này với khối lượng hoặc giá trị xuất khẩu hoặc với thu nhập bằng ngoại tệ.
3. (a) Các quy định trong khoản 2 không thể ngăn chặn Bên tham gia Hiệp định đặt ra điều kiện cho việc nhận hoặc tiếp tục nhận chế độ ưu đãi liên quan đến một dự án đầu tư của nhà đầu tư thuộc Bên tham gia Hiệp định, hoặc thuộc Bên không tham gia Hiệp định trong lãnh thổ của mình, tuân thủ theo  yêu cầu phải đặt hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ, đào tạo hoặc tuyển dụng công nhân, xây dựng hoặc mở rộng cơ sở vật chất, hoặc thực hiện công tác nghiên cứu và phát triển trong lãnh thổ của mình. 
(b) Khoản 1(f), 1(h) và 1(i) sẽ không có hiệu lực áp dụng:

(i) nếu Bên nào cho phép sử dụng quyền sở hữu trí tuệ theo quy định trong Điều 3126 của Hiệp định TRIPS, hoặc sử dụng các biện pháp yêu cầu công bố thông tin độc quyền trong phạm vi và thống nhất với các quy định trong Điều 39 của Hiệp định này; hoặc

(ii) nếu các yêu cầu này được áp đặt hoặc các cam kết này được đưa vào thực hiện bởi tòa án, hội đồng trọng tài hành chính hoặc cơ quan quản lý cạnh tranh nhằm khắc phục một hành vi được xác định sau quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính là hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định trong pháp luật cạnh tranh của Bên tham gia Hiệp định.27, 28 

(c) Khoản 1(i) không áp dụng đối với trường hợp hội đồng trọng tài đưa ra yêu cầu và buộc thực hiện cam kết thanh toán khoản thù lao hợp lý theo quy định pháp luật về bản quyền của Bên tham gia Hiệp định.  

(d) miễn sao những biện pháp này không được áp dụng một cách chủ quan hoặc vô căn cứ, hoặc được xem như là hành vi hạn chế thương mại và đầu tư quốc tế trá hình, các khoản 1(b), 1(c), 1(f), 2(a) và 2(b) sẽ không có hiệu lực cản trở Bên tham gia Hiệp định không ban hành hoặc duy trì các biện pháp này, kể cả các biện pháp về môi trường:

(i) cần thiết để đảm bảo việc tuân thủ theo pháp luật và quy định không trái với điều khoản của Hiệp định này;

(ii) cần thiết để bảo vệ đời sống hay sức khỏe con người, động thực vật; hoặc

(iii) liên quan đến việc bảo tồn tài nguyên sinh vật hoặc phi sinh vật có thể bị khai thác cạn kiệt.

(e) Các khoản 1(a),  1(b),  1(c),  2(a)  và  2(b) không áp dụng đối với các tiêu chí lựa chọn hàng hóa và dịch vụ thuộc chương trình xúc tiến đầu tư và viện trợ nước ngoài. 

(f) Khoản 1(b),  1(c),  1(f),  1(g),  1(h),  1(i),  2(a)  và  2(b)  sẽ không có hiệu lực áp dụng đối với hoạt động mua sắm chính phủ.

(g) Các khoản 2(a) và 2(b) không áp dụng đối với các điều kiện do Bên nhập khẩu đặt ra liên quan đến tính chất của hàng hóa cần thiết phải có để có thể được hưởng các ưu đãi thuế quan hoặc ưu đãi hạn ngạch nhập khẩu.

(h) các khoản (1)(h)  và  (1)(i)  sẽ không có hiệu lực cản trở Bên tham gia Hiệp định ban hành hoặc duy trì các biện pháp nhằm đảm bảo các mục tiêu về phúc lợi công cộng hợp lệ của mình miễn sao những biện pháp này không được áp dụng một cách chủ quan hoặc vô căn cứ, hoặc được xem như là hành vi hạn chế thương mại hoặc đầu tư quốc tế trá hình.

  1. Nhằm giải thích rõ hơn, trong trường hợp thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, triển khai, vận hành, kinh doanh hoặc các hình thức chuyển nhượng khác đối với một dự án đầu tư của nhà đầu tư thuộc Bên tham gia Hiệp định hoặc thuộc Bên không tham gia Hiệp định trong lãnh thổ của mình, không quy định nào của khoản 1 được xem như có hiệu lực ngăn cản Bên tham gia Hiệp định không được đặt ra, áp dụng các yêu cầu, hoặc đưa vào thực hiện các cam kết nhằm mục đích tuyển dụng hoặc đào tạo công nhân làm việc trong lãnh thổ của mình miễn sao việc tuyển dụng hoặc đào tạo này không đòi hỏi phải gắn với việc chuyển giao công nghệ, quy trình sản xuất hoặc các thông tin độc quyền khác cho một cá nhân nào đó trong lãnh thổ của mình.
  2. Nhằm giải thích rõ hơn, các khoản 1 và 2 không quy định bất kỳ cam kết hoặc yêu cầu nào khác với những cam kết, yêu cầu nêu trong những khoản này.
  3. Điều này không ngăn cấm các bên thỏa thuận riêng với nhau về việc thực hiện các cam kết hoặc yêu cầu này dù cho Bên tham gia Hiệp định không đặt ra hoặc buộc phải thực hiện các cam kết hoặc yêu cầu này.

Điều 9.10: Ban Quản lý cao cấp và các Ban Giám đốc

  1. Không Bên nào được phép yêu cầu doanh nghiệp thuộc diện dự án đầu tư được bảo đảm của Bên đó chỉ định một cá nhân mang quốc tịch của một nước nào đó đảm nhận vị trí trong ban quản lý cao cấp.
  2. Bên tham gia Hiệp định có thể yêu cầu thành viên chiếm đa số trong ban giám đốc hoặc ban điều hành khác của doanh nghiệp thuộc diện dự án đầu tư được bảo đảm của Bên kia là những người mang quốc tịch cụ thể hoặc cư trú trong lãnh thổ của mình miễn sao yêu cầu đó không gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng của nhà đầu tư trong việc thực thi quyền kiểm soát dự án đầu tư của mình.

Điều 9.11: Các biện pháp không tương thích

  1. Điều 9.4 (Nguyên tắc đối xử quốc gia), Điều 9.5 (Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc), Điều 9.9 (Yêu cầu thực hiện) và Điều 9.10 (Ban quản lý cao cấp và Ban Giám đốc) không áp dụng đối với các trường hợp sau:

(a) bất kỳ biện pháp không tương thích hiện hành nào được Bên tham gia Hiệp định duy trì:

(i) ở cấp quản lý trung ương theo quy định của Bên đó tại Biểu cam kết trong Phụ lục I;

(ii) ở cấp quản lý khu vực theo quy định của Bên đó tại Biểu cam kết trong Phụ lục I; hoặc

(iii) ở cấp quản lý địa phương;

(b) tiếp tục hoặc gia hạn kịp thời bất kỳ biện pháp không tương thích nào nêu trong điểm (a); hoặc

(c) có bất kỳ sửa đổi, bổ sung đối với bất kỳ biện pháp không tương thích nào quy định trong điểm (a) nếu việc sửa đổi, bổ sung đó không làm giảm đi mức độ tuân thủ của các biện pháp này so với thời điểm ngay trước khi thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đó với Điều 9.4 (Nguyên tắc đối xử quốc gia), Điều 9.5 (Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc), Điều 9.9 (Yêu cầu thực hiện) và Điều 9.10 (Ban quản lý cao cấp và Ban Giám đốc). 29   

  1. Điều 9.4 (Nguyên tắc đối xử quốc gia), Điều 9.5 (Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc), Điều 9.9 (Yêu cầu thực hiện) và Điều 9.10 (Ban quản lý cao cấp và Ban Giám đốc) không áp dụng cho bất kỳ biện pháp nào mà Bên tham gia Hiệp định ban hành áp dụng hoặc duy trì đối với các lĩnh vực, hạng mục hoặc hoạt động đầu tư theo quy định của Bên đó trong Biểu cam kết tại Phụ lục II.
  2. Trường hợp Bên này cho rằng một biện pháp không tương thích nào đó được áp dụng ở cấp quản lý khu vực thuộc Bên khác như quy định trong khoản 1(a)(ii) gây ra trở ngại nghiêm trọng đối với hoạt động đầu tư liên quan đến Bên này, Bên này có thể yêu cầu Bên kia bàn bạc, thảo luận các vấn đề liên quan đến biện pháp đó. Các Bên phải tiến hành bàn bạc, thảo luận với nhau theo hướng trao đổi thông tin về cách thức triển khai thực hiện biện pháp đó và xem xét các bước cần thiết và phù hợp tiếp theo.
  3. Trên cơ sở các biện pháp được ban hành sau ngày Hiệp định này có hiệu lực thực hiện tại Bên của mình và được quy định trong Biểu cam kết tại Phụ Lục II, không Bên nào được phép viện lý do quốc tịch để yêu cầu nhà đầu tư của Bên khác bán hoặc thanh lý dự án đầu tư đang thực hiện vào thời điểm các biện pháp đó bắt đầu có hiệu lực thực hiện.
  4. (a) Điều 9.4 (Nguyên tắc đối xử quốc gia) sẽ không có hiệu lực áp dụng đối với các biện pháp thuộc diện miễn trừ thực hiện các nghĩa vụ quy định tại:

(i) Điều 18.A.9 (Các Điều khoản chung về nguyên tắc đối xử quốc gia); hoặc

(ii) Điều 3 của Hiệp định TRIPS đối với trường hợp miễn trừ liên quan đến các vấn đề không được đề cập đến trong Chương 18 (Sở hữu trí tuệ).

(b) Điều 9.5 (Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc) sẽ không có hiệu lực áp dụng đối với các biện pháp thuộc phạm vi quy định của Điều 5 trong Hiệp định TRIPS hoặc thuộc diện miễn trừ thực hiện các nghĩa vụ quy định tại:

(i) Điều 18.A.9 (Các Điều khoản chung về nguyên tắc đối xử quốc gia); hoặc

(ii) Điều 4 của Hiệp định TRIPS.

  1. Điều 9.4 (Nguyên tắc đối xử quốc gia), Điều 9.5 (Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc) và Điều 9.10 (Ban quản lý cao cấp và Ban Giám đốc) không áp dụng đối với:(a) mua sắm chính phủ; hoặc(b) các chế độ trợ cấp hoặc hỗ trợ của Bên tham gia Hiệp định, bao gồm các khoản vay do chính phủ bảo đảm, các khoản bảo đảm và bảo hiểm.7. Nhằm giải thích rõ hơn, việc sửa đổi, bổ sung các Biểu cam kết trong Phụ lục I và II của Bên tham gia Hiệp định căn cứ theo Điều này phải được thực hiện theo quy định của Điều 30.2 (Sửa đổi, bổ sung).

Điều 9.12: Nguyên tắc thế quyền

Nếu Bên tham gia Hiệp định, cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc tập đoàn hợp pháp do Bên tham gia Hiệp định chỉ định thanh toán cho nhà đầu tư của Bên đó theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm, hợp đồng bảo hiểm hoặc các hình thức cam kết bồi thường khác mà Bên đó tham gia ký kết đối với dự án đầu tư được bảo đảm, Bên kia nơi có dự án đầu tư được bảo đảm phải công nhận hoạt động thế quyền hoặc chuyển quyền mà nhà đầu tư đó từng nắm giữ nhưng nay đã được mang ra để thực hiện hoạt động thế quyền theo quy định của Chương này đối với dự án đầu tư được bảo đảm, đồng thời nhà đầu tư cũng sẽ bị ngăn chặn không được phép theo đuổi quyền tùy theo phạm vi thế quyền.

Điều 9.13: Các thủ tục riêng và yêu cầu về thông tin

  1. Không quy định nào trong Điều 9.4 (Nguyên tắc đối xử quốc gia) có hiệu lực ngăn cản Bên tham gia Hiệp định không được phép ban hành hoặc duy trì một biện pháp có quy định các thủ tục riêng liên quan đến hoạt động đầu tư được bảo lãnh, cụ thể như các yêu cầu về cư trú trong quá trình đăng ký đầu tư hoặc có yêu cầu buộc hoạt động đầu tư được bảo đảm phải được quy định trong luật pháp của Bên đó miễn sao những thủ tục này không ảnh hưởng nghiêm trọng đến các chính sách bảo hộ do Bên đó áp dụng đối với các nhà đầu tư của Bên kia và các hoạt động đầu tư được bảo đảm theo quy định trong Chương này.
  2. Bên cạnh việc tuân thủ với các quy định của Điều 9.4 (Nguyên tắc đối xử quốc gia) và Điều 9.5 (Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc), Bên tham gia Hiệp định có thể yêu cầu nhà đầu tư của Bên kia hoặc dự án đầu tư được bảo đảm phải cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động đầu tư đó chỉ nhằm phục vụ cho mục đích thông tin và thống kê. Bên tham gia Hiệp định phải có biện pháp bảo mật thông tin đối với các loại thông tin mang tính chất bí mật khi mà việc công bố rộng rãi những thông tin này sẽ làm phương hại đến vị thế cạnh tranh của nhà đầu tư hoặc đến dự án đầu tư được bảo đảm. Không quy định nào trong Khoản này có hiệu lực ngăn chặn Bên tham gia Hiệp định không được phép thu thập hoặc công bố thông tin nếu như những việc này được thực hiện trên cơ sở áp dụng quy định pháp luật của Bên đó một cách công bằng và chân thành.

Điều 9.14: Khước từ lợi ích

  1. Bên tham gia Hiệp định có thể từ chối các lợi ích nêu trong Chương này đối với nhà đầu tư là doanh nghiệp của Bên kia và các dự án đầu tư của nhà đầu tư đó thực hiện nếu doanh nghiệp này:

(a) được sở hữu hoặc kiểm soát bởi cá nhân thuộc Bên không tham gia Hiệp định hoặc của Bên khước từ lợi ích này; và

(b) không có các hoạt động kinh doanh quan trọng trong lãnh thổ của Bên khác với Bên khước từ lợi ích đó.

  1. Bên tham gia Hiệp định có thể từ chối các lợi ích nêu trong Chương này đối với nhà đầu tư là doanh nghiệp của Bên kia và các dự án đầu tư của nhà đầu tư đó thực hiện nếu các cá nhân của Bên không tham gia Hiệp định sở hữu hoặc kiểm soát doanh nghiệp này và Bên khước từ lợi ích ban hành hoặc duy trì các biện pháp mà đối với Bên không tham gia Hiệp định hoặc cá nhân của Bên không tham gia Hiệp định có thể cản trở các hoạt động giao dịch với doanh nghiệp này, hoặc có thể phát sinh vi phạm hoặc lách luật nếu các lợi ích trong Chương này được trao cho doanh nghiệp này hoặc các hoạt động đầu tư của chính doanh nghiệp này.

Điều 9.15: Các mục tiêu quản lý đầu tư, môi trường, y tế và các mục tiêu khác

Chương này không quy định Bên tham gia Hiệp định sẽ bị nghiêm cấm không được ban hành, duy trì hoặc thực thi các biện pháp phù hợp với quy định trong Chương này nếu các biện pháp đó đảm bảo cho hoạt động đầu tư trên lãnh thổ của mình được thực hiện trên cơ sở phù hợp với các mục tiêu quản lý môi trường, y tế hoặc các mục tiêu quản lý khác.

Điều 9.16: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

Các Bên tham gia Hiệp định phải nhận thức được tầm quan trọng của mỗi Bên trong việc khuyến khích các doanh nghiệp trong lãnh thổ của mình hoặc trong phạm vi thẩm quyền của mình để chủ động lồng ghép trong các chính sách riêng của quốc gia mình các chuẩn mực, hướng dẫn và nguyên tắc về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được quốc tế thừa nhận và đã được Bên đó thông qua.    

Mục B: Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và quốc gia thành viên Hiệp định

Điều 9.17: Bàn bạc và thương lượng

  1. Trong trường hợp phát sinh tranh chấp trong quá trình đầu tư, bên nguyên đơn và bị đơn trước hết phải tìm cách giải quyết thông qua bàn bạc và thương lượng với nhau, trong đó bao gồm việc áp dụng các thủ tục không ràng buộc thực hiện với các bên và có sự tham gia của bên thứ ba thông qua các trung gian hòa giải.
  2. Bên nguyên đơn phải gửi văn bản yêu cầu bàn bạc, tham vấn đến bên bị đơn, trong đó mô tả tóm tắt tình hình liên quan đến biện pháp đang phát sinh tranh chấp.
  3. Nhằm giải thích rõ hơn, việc tiến hành bàn bạc và thương lượng không có nghĩa là các bên đã thừa nhận thẩm quyền phân xử của hội đồng trọng tài.

Điều 9.18: Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài

  1. Nếu một vụ tranh chấp đầu tư đã không được giải quyết trong vòng sáu tháng kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu bàn bạc và thương lượng từ bên bị đơn theo quy định của Điều 9.17.2 (Bàn bạc và thương lượng):

(a) bên nguyên đơn, đại diện cho chính mình, nộp hồ sơ khởi kiện lên cơ quan tài phán theo quy định trong Mục này đối với trường hợp:

(i) bên bị đơn đã vi phạm:

(A) nghĩa vụ theo quy định trong Mục A;

(B) cấp phép đầu tư; 31 hoặc

(C) hợp đồng đầu tư; và

(ii) bên nguyên đơn đã gánh chịu thiệt hại hoặc tổn thất do vi phạm đó gây ra; và

(b) bên nguyên đơn, thay mặt cho doanh nghiệp của bên bị đơn là một pháp nhân thuộc quyền sở hữu, kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp của bên bị đơn, phải nộp hồ sơ khởi kiện theo thủ tục tố tụng trọng tài theo quy định trong Mục này đối với trường hợp:

(i) bên bị đơn đã vi phạm:

(A) nghĩa vụ theo quy định trong Mục A;

(B) cấp phép đầu tư; hoặc

(C) hợp đồng đầu tư; và

(ii) doanh nghiệp đó đã gánh chịu thiệt hại hoặc tổn thất do vi phạm đó gây ra,

miễn sao  bên nguyên đơn, theo quy định tại điểm (a)(i)(C) hoặc (b)(i)(C),  có thể nộp hồ sơ khởi kiện đối với vụ kiện vi phạm hợp đồng đầu tư chỉ khi nào đối tượng của vụ kiện và các khoản bồi thường thiệt hại liên quan trực tiếp đến dự án đầu tư được bảo đảm đã được thành lập, mua lại hoặc đã cố gắng để được phép thành lập hoặc mua lại căn cứ trên hợp đồng đầu tư liên quan.       

  1. Khi bên nguyên đơn nộp hồ sơ khởi kiện theo quy định tại khoản 1(a)(i)(B), 1(a)(i)(C), 1(b)(i)(B) hoặc 1(b)(i)(C), bên bị đơn có thể nộp hồ sơ phản tố liên quan đến cơ sở pháp lý và căn cứ thực tế của hồ sơ khởi kiện hoặc trên cơ sở hồ sơ khiếu nại khoản khấu trừ mà bên nguyên đơn còn nợ bên bị đơn.
  2. Ít nhất 90 ngày trước khi nộp hồ sơ khởi kiện theo thủ tục trọng tài như quy định trong Mục này, bên nguyên đơn thông báo bằng văn bản cho bên bị đơn về dự định nộp hồ sơ khởi kiện theo thủ tục trọng tài của mình (thông báo dự định). Thông báo phải nêu cụ thể các nội dung sau:

(a) tên và địa chỉ bên nguyên đơn và, đối với trường hợp thay mặt doanh nghiệp nộp hồ sơ khởi kiện, phải nêu rõ tên, địa chỉ và trụ sở đăng ký thành lập của doanh nghiệp;  

(b) đối với mỗi vụ kiện, phải dẫn chiếu điều khoản trong Hiệp định này, thỏa thuận cấp phép đầu tư hoặc đầu tư mà cáo buộc đang phát sinh vi phạm cùng với các điều khoản liên quan;

(c) cơ sở pháp lý và căn cứ thực tế của mỗi vụ kiện; và

(d) yêu cầu biện pháp khắc phục và khoản bồi thường thiệt hại hợp lý.

  1. Bên nguyên đơn nộp hồ sơ khởi kiện đối với vụ kiện nêu tại khoản 1 theo một trong các phương án sau:

(a) căn cứ theo Công ước ICSID và các Nguyên tắc Tố tụng Trọng tài của ICSID với điều kiện bên bị đơn lẫn Bên tham gia Hiệp định của bên nguyên đơn là các thành viên của Công ước ICSID;

(b) căn cứ theo các Nguyên tắc về Năng lực Bổ sung của ICSID với điều kiện là bên bị đơn hoặc Bên tham gia Hiệp định của bên nguyên đơn là thành viên của Công ước ICSID;

(c) căn cứ theo các nguyên tắc của UNCITRAL; hoặc

(d) nếu bên nguyên đơn và bên bị đơn đã thống nhất với nhau về cơ quan tài phán khác và các nguyên tắc trọng tài khác.

  1. Hồ sơ khởi kiện sẽ được xem như là đã nộp lên trọng tài theo quy định trong Mục này khi thông báo hoặc văn bản yêu cầu trọng tài của bên nguyên đơn (thông báo trọng tài):

(a) theo Công ước ICSID đã gửi đến Tổng thư ký;

(b) theo Nguyên tắc Năng lực Bổ sung của ICSID đã được gửi đến Tổng thư ký;

(c) theo Nguyên tắc Trọng tài của UNCITRAL, kèm theo Tuyên bố khởi kiện nêu tại đây, đã được gửi đến bên bị đơn; hoặc

(d) theo quy định của cơ quan tài phán hoặc các nguyên tắc trọng tài quy định trong khoản 4(d) đã được gửi đến bên bị đơn.

Hồ sơ khởi kiện được bên nguyên đơn xác nhận lần đầu sau thời điểm nộp thông báo trọng tài nêu trên sẽ được xem như là đã nộp lên trọng tài theo quy định trong Mục này vào thời điểm nộp theo các nguyên tắc trọng tài hiện hành.

  1. Các nguyên tắc trọng tài hiện hành theo quy định tại khoản 4 có hiệu lực vào thời điểm hồ sơ khởi kiện đã được nộp lên trọng tài theo quy định tại Mục này sẽ được áp dụng cho vụ kiện nếu như Hiệp định này không sửa đổi, bổ sung gì khác.
  2. Bên nguyên đơn phải cung cấp kèm theo thông báo trọng tài:

(a) tên của trọng tài viên mà bên nguyên đơn chỉ định; hoặc

(b) văn bản đồng ý với trọng tài viên do Tổng thư ký chỉ định của bên nguyên đơn.

Điều 9.19: Chấp thuận trọng tài của mỗi Bên

  1. Mỗi Bên chấp thuận giải quyết vụ kiện qua thủ tục trọng tài theo quy định của Mục này tuân thủ theo Hiệp định này.
  2. Việc chấp thuận theo quy định trong khoản 1 và việc nộp hồ sơ khởi kiện lên trọng tài theo quy định trong Mục này sẽ được xem như đã thỏa mãn các điều kiện quy định tại:

(a) Chương II của Công ước ICSID (Thẩm quyền của Trung tâm) và các Nguyên tắc Năng lực Bổ sung ICSID đối với văn bản chấp thuận của các bên tranh chấp;

(b) Điều II của Công ước New York đối với một “văn bản thỏa thuận”; và

(c) Điều I của Công ước Liên châu Mỹ đối với một “thỏa thuận”.

Điều 9.20: Các điều kiện và hạn chế đối với việc chấp thuận của mỗi Bên

  1. Theo quy định trong Mục này, các Bên không được phép nộp hồ sơ khởi kiện lên trọng tài nếu đã quá thời hạn ba năm và sáu tháng kể từ thời điểm bên nguyên đơn là người đầu tiên hoặc đáng lý phải là người đầu tiên nhận thức được hành vi vi phạm nêu tại Điều 9.18.1 (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài) và nhận thức rằng bên nguyên đơn (đối với các vụ kiện theo Điều 9.18.1 (a)) hoặc doanh nghiệp (đối với các vụ kiện theo 9.18.1 (b)) đã gánh chịu tổn thất hoặc thiệt hại.
  2. Các bên không được phép nộp hồ sơ khởi kiện lên trọng tài theo quy định tại Mục này trừ khi:

(a) bên nguyên đơn có văn bản chấp thuận giải quyết tranh chấp bằng thủ tục trọng tài tuân theo các trình tự quy định trong Hiệp định này; và

(b) thông báo trọng tài kèm theo:

(i) đối với các vụ kiện lên trọng tài quy định tại Điều 9.18.1 (a) (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài), văn bản từ bỏ của bên nguyên đơn; và

(ii) đối với các vụ kiện lên trọng tài quy định tại Điều 9.18.1 (b) (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài), văn bản từ bỏ của bên nguyên đơn và doanh nghiệp,

đối với quyền khởi kiện hoặc tiếp tục theo đuổi vụ kiện liên quan đến bất kỳ biện pháp nào bị cáo buộc có hành vi vi phạm theo Điều 9.18 (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài) lên tòa án hoặc hội đồng trọng tài hành chính theo quy định pháp luật của Bên tham gia Hiệp định, hoặc tuân thủ theo thủ tục giải quyết tranh chấp.

  1. Đồng thời với việc tuân thủ các quy định của khoản 2(b), bên nguyên đơn (đối với các vụ kiện theo quy định của Điều 9.18.1 (a) (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài) và bên nguyên đơn hoặc doanh nghiệp (đối với các vụ kiện theo Điều 9.18.1 (b)) có thể tiến hành hoặc tiếp tục thực hiện hành động nhằm tìm kiếm biện pháp khắc phục tạm thời theo quyết định của cơ quan tài phán và không bao gồm việc thanh toán tiền bồi thường thiệt hại trước khi hội đồng trọng tài tư pháp hoặc hành chính của bên bị đơn, miễn sao thỏa điều kiện là hành động này chỉ nhằm phục vụ cho mục đích duy nhất là bảo lưu quyền lợi của doanh nghiệp trong khoảng thời gian thủ tục tố tụng trọng tài bị trì hoãn.

Điều 9.21: Chọn lựa trọng tài viên

  1. Ngoại trừ trường hợp các bên tranh chấp có thỏa thuận nào khác, thành phần của hội đồng trọng tài phải bao gồm ba trọng tài viên, trong đó một trọng tài viên do mỗi bên chỉ định và trọng tài viên thứ ba đóng vai trò chủ trì quá trình phân xử được chỉ định theo thỏa thuận của các bên tranh chấp.
  2. Tổng thư ký sẽ có quyền chỉ định trọng tài viên theo quy định tại Mục này.
  3. Nếu hội đồng trọng tài không được thành lập trong thời hạn 75 ngày sau thời điểm nộp hồ sơ khởi kiện lên trọng tài theo Mục này, Tổng thư ký có quyền tùy ý chỉ định trọng tài viên còn trống theo yêu cầu của bên tranh chấp. Tổng thư ký không được phép chỉ định công dân của bên bị đơn lẫn Bên tham gia Hiệp định của bên nguyên đơn đảm nhận vị trí trọng tài viên chủ trì vụ kiện, ngoại trừ trường hợp các bên tranh chấp có thỏa thuận khác.
  4. Căn cứ quy định trong Điều 39 của Công ước ISCID và Điều 7 của Biểu cam kết C đối với các Nguyên tắc về Năng lực Bổ sung của ICSID và nếu như đảm bảo không gây phương hại đến quyền phản đối việc chỉ định một trọng tài viên vì lý do nào khác ngoài lý do quốc tịch:

(a) bên bị đơn đồng ý với việc chỉ định mỗi thành viên của hội đồng trọng tài được thành lập theo Công ước ICSID hoặc các Nguyên tắc về Năng lực Bổ sung của ICSID;

(b) bên nguyên đơn quy định trong Điều 9.18.1 (a) (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài) có thể nộp hồ sơ khởi kiện lên trọng tài theo Mục này, hoặc tiếp tục theo đuổi vụ kiện, tuân thủ theo Công ước ICSID hoặc các Nguyên tắc về Năng lực Bổ sung của ICSID chỉ khi nào bên nguyên đơn đồng ý bằng văn bản với việc chỉ định đối với mỗi thành viên thuộc hội đồng trọng tài; và

(c) bên nguyên đơn quy định trong Điều 9.18.1 (b) (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài) có thể nộp hồ sơ khởi kiện lên trọng tài theo Mục này, hoặc tiếp tục theo đuổi vụ kiện, tuân thủ theo Công ước ICSID hoặc các Nguyên tắc về Năng lực Bổ sung của ICSID chỉ khi nào bên nguyên đơn đồng ý bằng văn bản với việc chỉ định đối với mỗi thành viên thuộc hội đồng trọng tài.

  1. Đối với việc chỉ định các trọng tài viên tham gia vào hội đồng trọng tài để phân xử các vụ kiện theo quy định tại Điều 9.18.1 (a)(i)(B) (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài), Điều 9.18.1(b)(i)(B), Điều 9.18.1(a)(i)(C) hoặc Điều 9.18.1(b)(i)(C), mỗi bên tranh chấp phải xem xét khả năng chuyên môn và kinh nghiệm của các ứng viên theo quy định pháp luật được áp dụng và quy định của Điều 9.24.2 (Luật áp dụng). Nếu các bên không thống nhất việc chỉ định trọng tài viên chủ trì, Tổng thư ký cũng phải xem xét lại năng lực chuyên môn và kinh nghiệm của các ứng viên theo quy định pháp luật được áp dụng và quy định của Điều 9.24.2 (Luật áp dụng).
  2. Các Bên tham gia Hiệp định phải hướng dẫn việc áp dụng Bộ Quy tắc ứng xử về Thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp nêu trong Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) đối với các trọng tài viên được tuyển chọn để tham gia vào hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư – nước thành viên Hiệp định trước khi Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực thi hành phù hợp với quy định trong Điều này, bao gồm hướng dẫn sửa đổi, bổ sung cần thiết đối với Bộ Quy tắc ứng xử để Bộ quy tắc này phù hợp với tình hình giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư – nước thành viên Hiệp định. Đồng thời, các Bên phải hướng dẫn việc áp dụng các nguyên tắc khác hoặc chỉ dẫn khác có liên quan đến những mối xung đột lợi ích trong thủ tục tố tụng trọng tài quốc tế. Các trọng tài viên phải tuân thủ theo các hướng dẫn này cũng như các nguyên tắc tố tụng trọng tài hiện hành liên quan đến quyền tự chủ và không thiên vị của các trọng tài viên.

Điều 9.22: Tổ chức thực hiện thủ tục tố tụng trọng tài

  1. Các bên tranh chấp có thể thỏa thuận về địa điểm trọng tài hợp pháp theo các nguyên tắc trọng tài hiện hành như quy định tại Điều 9.18.4 (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài). Nếu các bên tranh chấp không thể thỏa thuận được với nhau, hội đồng trọng tài sẽ quyết định địa điểm tuân thủ theo các nguyên tắc trọng tài hiện hành miễn sao địa điểm đó nằm trong lãnh thổ của quốc gia là thành viên của Công ước New York.
  2. Bên không tham gia Hiệp định có thể nộp hồ sơ, tài liệu bằng lời nói hoặc văn bản đến hội đồng trọng tài liên quan đến từng trường hợp cụ thể quy định trong Hiệp định này.
  3. Sau khi bàn bạc, thảo luận với các bên tranh chấp, hội đồng trọng tài có thể chấp nhận và xem xét các tài liệu, hồ sơ hỗ trợ phân xử liên quan đến một vấn đề thực tế hoặc quy định pháp luật trong phạm vi tranh chấp mà có thể giúp hội đồng trọng tài đánh giá hồ sơ, tài liệu và lập luận của các bên tranh chấp được nhận từ cá nhân hoặc đối tượng không phải bên tranh chấp nhưng lại có liên đới lợi ích quan trọng trong vụ kiện. Mỗi bộ hồ sơ, tài liệu nộp lên trọng tài phải cung cấp thông tin về người soạn, đơn vị liên kết trực tiếp hoặc gián tiếp đối với bên tranh chấp; xác định cá nhân, cơ quan hoặc các đối tượng khác đã cung cấp, hoặc sẽ cung cấp hỗ trợ tài chính hoặc các hỗ trợ khác cho việc chuẩn bị bộ hồ sơ, tài liệu đó. Mỗi bộ hồ sơ, tài liệu phải được soạn bằng ngôn ngữ đúng với yêu cầu về thủ tục tố tụng trọng tài và tuân thủ theo quy định giới hạn số trang cũng như thời hạn nộp theo quy định của hội đồng trọng tài. Hội đồng trọng tài phải tạo cơ hội cho các bên tranh chấp phản hồi về hồ sơ, tài liệu mà mình đã nộp. Hội đồng trọng tài phải bảo đảm các hồ sơ, tài liệu này không gây trở ngại hoặc tạo ra gánh nặng cho thủ tục tố tụng trọng tài một cách không hợp lý, hoặc gây tác động không công bằng đến các bên tranh chấp.
  4. Nếu như không phương hại đến thẩm quyền của hội đồng trọng tài đối với việc xem xét những trường hợp kháng cáo như là nghi vấn ban đầu, bao gồm việc kháng cáo cho rằng vụ tranh chấp không thuộc phạm vi phân xử của hội đồng trọng tài, kể cả ý kiến phải đối đối với quyền hạn phân xử của hội đồng trọng tài, hội đồng trọng tài phải xem xét bất kỳ việc kháng cáo nào từ phía bị đơn như là nghi vấn ban đầu khi cho rằng, căn cứ theo quy định pháp luật, vụ kiện đang được đưa ra phân xử không phải là vụ kiện mà bên nguyên đơn có thể nhận được quyết định có lợi cho mình từ hội đồng trọng tài theo Điều 9.28 (Phán quyết trọng tài), hoặc cho rằng vụ kiện hoàn toàn không có giá trị pháp lý.    

(a) hồ sơ kháng cáo theo quy định trong khoản này được phép nộp lên cho hội đồng trọng tài càng sớm càng tốt, nếu có thể thì nên nộp ngay sau khi hội đồng trọng tài được thành lập và không được phép nộp sau thời hạn hội đồng trọng tài ấn định để bên bị đơn nộp bản phản biện, hoặc trong trường hợp có phát sinh bổ sung, sửa đổi đối với thông báo trọng tài thì không được phép nộp sau thời hạn hội đồng trọng tài ấn định để bên bị đơn phản hồi đối với nội dung bổ sung, sửa đổi đó.       

(b) Khi nhận được hồ sơ kháng cáo theo quy định tại khoản này, hội đồng trọng tài phải đình chỉ thủ tục phân xử sau khi xét thấy các bằng chứng, đối chiếu các quy định pháp luật là có căn cứ, sau đó xếp lịch trình xem xét hồ sơ kháng cáo sao cho phù hợp với lịch trình xem xét các nghi vấn ban đầu khác và đưa ra quyết định hoặc phán quyết đối với hồ sơ kháng cáo đó, trong đó phải giải thích rõ lý do đưa ra quyết định hoặc phán quyết đó.

(c) Để đưa ra quyết định đối với hồ sơ kháng cáo theo quy định của khoản này đối với trường hợp hồ sơ kháng cáo đó cho rằng vụ kiện đang được đưa ra phân xử không phải là vụ kiện mà bên nguyên đơn có thể nhận được quyết định có lợi cho mình từ hội đồng trọng tài theo Điều 9.28 (Phán quyết trọng tài), hội đồng trọng tài phải giả định rằng các cáo buộc hỗ trợ cho vụ kiện có trình bày chứng cứ thực tế trong thông báo trọng tài (hoặc nội dung bổ sung, sửa đổi đối với thông báo đó) và, đối với các vụ tranh chấp được phân xử theo các Nguyên tắc Trọng tài của UNCITRAL, tuyên bố khởi kiện nêu tại Điều khoản liên quan của Nguyên tắc Trọng tài của UNCITRAL, là đúng. Hội đồng trọng tài cũng có thể xem xét các chứng cứ phù hợp ngoài tranh chấp.

(d) Bên bị đơn không được phép rút lại hồ sơ kháng cáo liên quan đến thẩm quyền, bao gồm việc kháng cáo đối với quyền hạn phân xử, hoặc đối với bất kỳ luận cứ nào được đưa ra sau khi đã xem xét các chứng cứ và đối chiếu quy định pháp luật chỉ vì lý do là bên bị đơn đã không kháng cáo theo đúng quy định tại khoản này hoặc không thực hiện thủ tục đẩy nhanh quá trình phân xử theo quy định tại khoản 5. 

  1. Trong trường hợp bên bị đơn đưa ra yêu cầu của mình trong thời hạn 45 ngày sau ngày thành lập hội đồng trọng tài, hội đồng trọng tài phải đẩy nhanh quá trình đưa ra quyết định đối với hồ sơ kháng cáo cho rằng vụ tranh chấp không thuộc chức năng phân xử của hội đồng trọng tài, kể cả hồ sơ kháng cáo cho rằng vụ tranh chấp không thuộc phạm vi quyền hạn phân xử của hội đồng trọng tài. Hội đồng trọng tài phải đình chỉ các thủ tục phân xử sau khi xem xét các chứng cứ và đối chiếu quy định pháp luật và ban hành quyết định hoặc phán quyết đối với hồ sơ kháng cáo đó, trong đó phải nêu rõ lý do cụ thể trong thời hạn tối đa là 150 ngày kể từ sau ngày đưa ra yêu cầu. Tuy nhiên, nếu bên tranh chấp có yêu cầu mở phiên điều trần thì hội đồng trọng tài có thể phải mất thêm 30 ngày để ban hành quyết định hoặc phán quyết của mình. Dù có hay không có yêu cầu mở phiên điều trần và nếu trình bày bổ sung nguyên nhân nào khác, hội đồng trọng tài có thể trì hoãn việc đưa ra quyết định hoặc phán quyết thêm một khoảng thời hạn ngắn tối đa là 30 ngày.
  2. Khi hội đồng trọng tài đưa ra quyết định của mình đối với kháng cáo của bên bị đơn theo quy định tại khoản 4 hoặc 5, nếu nhận thấy thỏa đáng, hội đồng có thể quyết định cho bên tranh chấp thắng kiện được phép nhận khoản thanh toán đối với chi phí hợp lý và các phí thuê luật sư phát sinh trong quá trình thực hiện thủ tục nộp hoặc phản bác hồ sơ kháng cáo. Để xác định xem phán quyết trọng tài có thỏa đáng hay không, hội đồng trọng tài phải xét xem liệu hồ sơ khởi kiện của bên nguyên đơn hoặc hồ sơ kháng cáo của bên bị đơn có hợp lệ hay không và sẽ tạo cơ hội thích hợp để các bên tranh chấp trình bày ý kiến của mình.
  3. Nhằm giải thích rõ hơn, nếu nhà đầu tư của một Bên tham gia Hiệp định nộp hồ sơ khởi kiện theo quy định tại Mục này, trong đó có cáo buộc một Bên tham gia Hiệp định vi phạm quy định tại Điều 9.6 (Chuẩn mực đối xử tối thiểu), nhà đầu tư này có trách nhiệm chứng minh tất cả các nội dung trong hồ sơ khởi kiện mà mình đã nộp đúng với các nguyên tắc chung của công pháp quốc tế áp dụng đối với thủ tục trọng tài quốc tế.
  4. Nhằm mục đích biện hộ, kháng án hoặc thực thi quyền bảo vệ quan điểm của mình, bên bị đơn có thể không thừa nhận rằng bên nguyên đơn đã nhận hoặc sẽ nhận khoản bồi thường cho toàn bộ hoặc một phần thiệt hại theo cáo buộc như thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm hoặc bảo hiểm.
  5. Hội đồng trọng tài có thể quyết định biện pháp bảo vệ tạm thời nhằm bảo lưu quyền lợi cho bên tranh chấp, hoặc để bảo đảm rằng quyền hạn xét xử của hội đồng trọng tài là hoàn toàn hợp lệ, trong đó bao gồm quyết định để bảo quản chứng cứ thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của bên tranh chấp hoặc để bảo vệ thẩm quyền xét xử của hội đồng trọng tài. Hội đồng trọng tài được quyền không phát lệnh tịch biên tài sản hoặc yêu cầu áp dụng một biện pháp nào đó có thể phát sinh vi phạm theo quy định tại Điều 9.18 (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài). “lệnh” được hiểu theo quy định của khoản này là bao gồm ý kiến đề xuất.
  6. Trong bất kỳ thủ tục trọng tài nào được thực hiện theo quy định của Mục này và trên cơ sở yêu cầu từ bên tranh chấp, hội đồng trọng tài phải thông báo nội dung quyết định hoặc phán quyết dự kiến của mình đến các bên tranh chấp trước khi chính thức ban hành quyết định hoặc phán quyết đó. Trong thời hạn 60 ngày sau thời điểm hội đồng trọng tài gửi văn bản nội dung quyết định hoặc phán quyết dự kiến, các bên tranh chấp có thể trình bày ý kiến của mình đối với nội dung quyết định hoặc phán quyết đó bằng văn bản đến hội đồng trọng tài. Hội đồng trọng tài phải xem xét các ý kiến này và thực hiện ban hành quyết định hoặc phán quyết của mình trong thời hạn tối đa là 45 ngày sau thời điểm kết thúc thời hạn 60 ngày nộp ý kiến trình bày của bên tranh chấp.
  7. Trong trường hợp có một cơ chế kháng cáo được hình thành trong tương lai theo đúng các điều khoản thỏa thuận được quy định trong pháp luật, trong đó yêu cầu xem xét lại các phán quyết do các hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và quốc gia thành viên Hiệp định ban hành, các Bên tham gia Hiệp định phải xét xem liệu các phán quyết được ban hành theo quy định tại Điều 9.28 (Phán quyết trọng tài) có thuộc diện phải giải quyết theo cơ chế kháng cáo hay không. Các Bên tham gia Hiệp định phải phải cố gắng đảm bảo rằng cơ chế kháng cáo mà các Bên này đang xem xét áp dụng phải minh bạch về thủ tục trọng tài như quy định trong các điều khoản về tính minh bạch tại Điều 9.23 (Tính minh bạch trong thủ tục trọng tài)

Điều 9.23: Tính minh bạch trong thủ tục trọng tài

  1. Căn cứ theo khoản 2 và 4, bên bị đơn phải kịp thời chuyển và công bố rộng rãi các văn bản sau đến các Bên không liên quan đến tranh chấp sau khi nhận được chúng:

(a) thông báo dự định;

(b) thông báo trọng tài;

(c) hồ sơ biện hộ, phản biện và bào chữa do bên tranh chấp nộp cho hội đồng trọng tài và các loại hồ sơ, tài liệu nộp theo thủ tục trọng tài đúng với quy định tại Điều 9.22.2 (Tổ chức thực hiện thủ tục tố tụng trọng tài) và Điều 9.27 (Điều khoản hợp nhất);

(d) các biên bản hoặc bản tường thuật lại phiên điều trần của hội đồng trọng tài (nếu có); và

(e) lệnh, phán quyết và quyết định của hội đồng trọng tài.

  1. Hội đồng trọng tài phải mở phiên điều trần để các bên trình bày ý kiến một cách công khai và bàn bạc với các bên tranh chấp để thống nhất các công tác chuẩn bị phù hợp cho phiên điều trần này. Nếu bên tranh chấp muốn sử dụng những thông tin được bảo mật trong phiên điều trần hoặc muốn thực hiện các quy định trong khoản 3, bên đó phải thông báo cho hội đồng trọng tài biết. Hội đồng trọng tài phải tổ chức công tác bảo vệ để thông tin đó không bị tiết lộ ra ngoài, trong đó bao gồm việc thực hiện đóng cửa phiên điều trần trong thời gian thảo luận thông tin.
  2. Không có quy định nào trong Mục này, kể cả khoản 4(d), yêu cầu bên bị đơn phải công bố hoặc tiết lộ thông tin về phiên điều trần, thông tin được bảo mật trong hoặc sau quá trình tố tụng trọng tài, hoặc phải cung cấp hoặc cho phép việc tiếp cận thông tin mà bên bị đơn có quyền từ chối cung cấp tuân thủ theo quy định tại Điều 29.2 (Trường hợp ngoại lệ về bảo mật) hoặc Điều 29.6 (Công bố thông tin).33
  3. Bất kỳ loại thông tin thuộc diện bảo mật nào sau khi được trình bày lên hội đồng trọng tài đều được bảo vệ để không bị tiết lộ ra bên ngoài theo đúng với các quy trình, thủ tục dưới đây:

(a) căn cứ theo quy định tại điểm (d), không bên tranh chấp lẫn hội đồng trọng tài nào được phép tiết lộ các thông tin thuộc diện bảo mật cho Bên không tham gia Hiệp định hoặc công bố rộng rãi  ra công chúng nếu bên tranh chấp, là đối tượng đã cung cấp thông tin đó, chưa cho phép theo quy định tại điểm (b);

(b) bất kỳ bên tranh chấp nào cho rằng thông tin nào đó được xem như là thông tin cần được bảo mật phải xác định rõ đó là những thông tin nào theo đúng thời hạn do hội đồng trọng tài đặt ra;

(c) bên tranh chấp phải nộp văn bản đã qua chỉnh sửa và không chứa thông tin bảo mật theo đúng thời hạn do hội đồng trọng tài đặt ra. Chỉ những văn bản đã qua chỉnh sửa, biên tập sẽ được công bố ra ngoài tuân thủ theo quy định tại khoản 1; và

(d) hội đồng trọng tài, căn cứ theo quy định khoản 3, phải quyết định bất kỳ biện pháp bảo vệ liên quan đến việc xác định thông tin thuộc diện thông tin được bảo mật.   Nếu hội đồng trọng tài cho rằng việc xác định các thông tin bảo mật đó là không phù hợp, bên tranh chấp là đối tượng đã nộp thông tin đó có thể phải:

(i) nhận lại toàn bộ hoặc một phần hồ sơ, tài liệu đã nộp mà có chứa các thông tin đó; hoặc

(ii) đồng ý nộp lại các bản hoàn chỉnh và đã được chỉnh sửa, biên tập với các thông tin đã được xác định chính xác theo đúng với kết luận của hội đồng trọng tài và quy định tại điểm (c).

Trong cả hai trường hợp này, nếu thấy cần thiết, bên tranh chấp còn lại phải nộp lại bản hồ sơ, tài liệu hoàn chỉnh và đã được chỉnh sửa, biên tập, trong đó phải loại bỏ thông tin đã được rút lại theo quy định tại điểm (d)(i) bởi bên tranh chấp là đối tượng đầu tiên nộp thông tin này lên hội đồng trọng tài, hoặc phải xác định lại thông tin thống nhất với việc xác định thông tin tại điểm (d)(ii) của bên tranh chấp là đối tượng đầu tiên nộp thông tin này lên hội đồng trọng tài. 

  1. Không quy định nào trong Mục này buộc bên bị đơn phải từ chối cung cấp thông tin cần phải được công bố rộng rãi theo quy định pháp luật của mình. Bên bị đơn phải tìm mọi biện pháp để áp dụng các quy định đó một cách tinh tế để bảo vệ thông tin được xác định là thông tin thuộc diện bảo mật không nên bị tiết lộ ra bên ngoài.

Điều 9.24: Luật áp dụng

  1. Căn cứ theo khoản 3, khi tiến hành thủ tục khởi kiện theo quy định của Điều 9.18.1 (a)(i)(A) (Trình tự khởi kiện theo thủ tục tố tụng trọng tài) hoặc Điều 9.18.1 (b)(i)(A), hội đồng trọng tài phải đưa ra quyết định đối với các vấn đề đang tranh chấp theo đúng với điều khoản của Hiệp định này và các nguyên tắc hiện hành của công pháp quốc tế.34
  2. Căn cứ theo khoản 3 và các điều khoản của Mục này, khi tiến hành thủ tục khởi kiện theo quy định của Điều 9.18.1 (a)(i)(B) (Trình tự khởi kiện theo thủ tục tố tụng trọng tài), Điều 9.18.1 (a)(i)(C), Điều 9.18.1 (b)(i)(B) hoặc Điều 9.18.1 (b)(i)(C), hội đồng trọng tài phải áp dụng:

(a) các nguyên tắc pháp lý hiện đang áp dụng việc cấp phép đầu tư hợp lý hoặc các nguyên tắc pháp lý được nêu cụ thể trong việc cấp phép đầu tư hợp lý hoặc trong hợp đồng đầu tư, hoặc trong trường hợp các bên tranh chấp có thỏa thuận khác; hoặc

(b) trong trường hợp hợp đồng đầu tư hợp lý không quy định cụ thể hoặc thỏa thuận áp dụng các nguyên tắc pháp lý nào khác: 

(i) pháp luật của bên bị đơn, bao gồm các nguyên tắc đối với trường hợp mâu thuẫn pháp lý;35

(ii) các nguyên tắc của công pháp quốc tế có thể áp dụng.

  1. Quyết định của Ủy ban đối với việc áp dụng một điều khoản nào đó trong Hiệp định này theo Điều 27.2.2(f) (Chức năng của Ủy ban) có hiệu lực áp dụng đối với hội đồng trọng tài và bất kỳ quyết định hoặc phán quyết nào của hội đồng trọng tài phải đồng bộ với quyết định đó.

Điều 9.25: Thuyết minh các phụ lục

  1. Nếu trong phần biện hộ của mình bên bị đơn khẳng định rằng biện pháp mà bên nguyên đơn cáo buộc vi phạm đó thuộc phạm vi cho phép của biện pháp không tương thích nêu trong Phụ lục I hoặc II, hội đồng xét xử sẽ căn cứ theo yêu cầu từ bên bị đơn để đề xuất Ủy ban giải trình cụ thể về sự vụ. Ủy ban phải gửi quyết định giải trình bằng văn bản theo quy định của Điều 27.2.2(f) (Chức năng của Ủy ban) đến hội đồng xét xử trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày gửi yêu cầu.
  2. Quyết định của Ủy ban theo quy định tại khoản 1 có hiệu lực áp dụng đối với hội đồng trọng tài và bất kỳ quyết định hay phán quyết nào của hội đồng trọng tài phải phù hợp với quyết định đó. Nếu Ủy ban không ban hành quyết định đó trong thời hạn 90 ngày, hội đồng trọng tài có trách nhiệm ban hành quyết định này.

 

 

Điều 9.26: Báo cáo chuyên gia

Nếu như không phương hại đến việc chỉ định các chuyên gia khác theo quy định trong các nguyên tắc trọng tài hiện hành và trong trường hợp các bên tranh chấp không chấp thuận, hội đồng trọng tài sẽ căn cứ theo yêu cầu của bên tranh chấp hoặc tùy theo chọn lựa của bên tranh chấp để chỉ định một hoặc một vài chuyên gia báo cáo bằng văn bản về tình hình thực tế liên quan đến các vấn đề khoa học mà bên tranh chấp đưa ra trong quá trình phân xử phù hợp với các điều khoản thỏa thuận giữa các bên tranh chấp. 

Điều 9.27: Điều khoản hợp nhất

  1. Trong trường hợp hai hoặc một vài hồ sơ khởi kiện độc lập được nộp lên trọng tài phân xử theo quy định tại Điều 9.18.1 (Trình tự khởi kiện theo thủ tục tố tụng trọng tài) và các hồ sơ khởi kiện này có cùng vấn đề pháp lý hoặc căn cứ thực tế và phát sinh từ các sự vụ hoặc hoàn cảnh giống nhau, bên tranh chấp có thể xin lệnh hợp nhất theo thỏa thuận giữa các bên tranh chấp có thể bị điều chỉnh bởi lệnh này hoặc các điều khoản quy định từ khoản 2 đến khoản 10.
  2. Bên tranh chấp đang xin lệnh hợp nhất theo quy định tại Điều này phải gửi văn bản yêu cầu đến Tổng thư ký và tất cả các bên tranh chấp có thể bị điều chỉnh bởi lệnh này và có nghĩa vụ phải cung cấp các nội dung chi tiết trong văn bản đề nghị gồm:

(a) tên và địa chỉ của tất cả các bên tranh chấp xét thấy có thể được bảo vệ bởi lệnh này; 

(b) bản chất của lệnh mà các bên tranh chấp đang yêu cầu; và

(c) căn cứ mà các bên tranh chấp dựa vào đó để xin được cấp lệnh này.

  1. Trong trường hợp Tổng thư ký xét thấy rằng văn bản yêu cầu này là hoàn toàn vô căn cứ trong thời hạn 30 ngày kể từ sau ngày nhận văn bản yêu cầu đó theo quy định tại khoản 2, hội đồng trọng tài cần phải được thành lập theo quy định tại Điều này.
  2. Nếu tất cả các bên tranh chấp thuộc phạm vi điều chỉnh của lệnh này không có thỏa thuận gì khác, hội đồng trọng tài được thành lập theo quy định tại Điều này phải bao gồm ba trọng tài viên:

(a) một trọng tài viên được chỉ định với sự đồng ý từ phía nguyên đơn;

(b) một trọng tài viên do bên bị đơn chỉ định; và

(c) trọng tài viên chủ trì do Tổng thư ký chỉ định nếu thỏa điều kiện là vị trọng tài viên đó không phải là công dân của bên bị đơn hoặc của Bên tham gia Hiệp định thuộc bên nguyên đơn.

  1. Trong thời hạn 60 ngày sau ngày Tổng thư ký nhận được yêu cầu nêu tại khoản 2, nếu bên bị đơn hoặc các bên bị đơn không chỉ định được trọng tài viên theo quy định tại khoản 4 thì Tổng thư ký sẽ được quyền tùy ý chỉ định trọng tài viên đảm nhận vị trí còn trống trong hội đồng trọng tài theo yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào có thể bị điều chỉnh bởi lệnh này.
  2. Nếu hội đồng trọng tài được thành lập theo quy định tại Điều này thừa nhận rằng hai hoặc một vài hồ sơ khởi kiện mà đã được nộp lên trọng tài theo quy định tại Điều 9.18.1 (Trình tự khởi kiện theo thủ tục tố tụng trọng tài) có cùng vấn đề pháp lý hoặc căn cứ thực tế và phát sinh từ các sự vụ hoặc hoàn cảnh giống nhau, xét vì lợi ích của việc giải quyết các vụ kiện một cách công bằng và hiệu quả và sau khi nghe phần điều trần từ các bên tranh chấp, các thành viên hội đồng trọng tài có thể:

(a) thực thi thẩm quyền và cùng nhau lắng nghe ý kiến giải trình và ban hành quyết định đối với tất cả hoặc một phần các vụ kiện;  

(b) thực thi thẩm quyền và lắng nghe ý kiến giải trình và ban hành quyết định đối với một hoặc một vài vụ kiện, đồng thời có thẩm quyền đối với việc ban hành quyết định mà hội đồng trọng tài tin rằng quyết định đó sẽ hỗ trợ cho quá trình giải quyết các vụ kiện khác; hoặc   

(c) thuê hội đồng trọng tài đã được thành lập trước đó để làm đại diện theo quy định của Điều 9.21 (Lựa chọn trọng tài viên) để thực hiện quyền hạn và cùng nhau lắng nghe ý kiến giải trình và ban hành quyết định đối với tất cả hoặc một phần các vụ kiện miễn thỏa điều kiện sau đây:

(i) trên cơ sở yêu cầu của bên nguyên đơn mà trước đó không phải là bên tranh chấp trước khi hội đồng trọng tài đó được thành lập, hội đồng trọng tài đó phải được tái thành lập  với sự tham gia của các thành viên ban đầu, ngoại trừ trường hợp trọng tài viên đại diện cho các bên nguyên đơn sẽ được chỉ định theo quy định tại các khoản 4(a) và 5; và

(ii) hội đồng trọng tài đó phải quyết định liệu phiên điều trần trước đó có cần phải được tiến hành lại hay không.

  1. Nếu hội đồng trọng tài đã được thành lập theo quy định tại Điều này, bên nguyên đơn mà đã nộp hồ sơ khởi kiện lên trọng tài theo quy định tại Điều 9.18.1 (Trình tự khởi kiện theo thủ tục tố tụng trọng tài) và chưa được nêu tên trong văn bản yêu cầu theo quy định tại khoản 2 có thể nộp văn bản yêu cầu lên hội đồng trọng tài, trong đó hồ sơ khởi kiện được đề cập đến trong bất kỳ lệnh nào được ban hành theo quy định tại khoản 6. Văn bản yêu cầu phải bao gồm các thông tin cụ thể sau:

(a) tên và địa chỉ của bên nguyên đơn;

(b) bản chất của lệnh mà các bên tranh chấp yêu cầu; và

(c) căn cứ mà các bên tranh chấp dựa vào đó để xin được cấp lệnh này.

Bên nguyên đơn phải gửi bản sao văn bản yêu cầu cho Tổng thư ký.

  1. Hội đồng trọng tài được thành lập theo quy định của Điều này phải thực hiện các thủ tục phân xử theo các Nguyên tắc Trọng tài của UNCITRAL, ngoại trừ trường hợp được sửa đổi, bổ sung theo các quy định trong Mục này.
  2. Hội đồng trọng tài được thành lập theo quy định tại Điều 9.21 (Lựa chọn trọng tài viên) phải có đủ thẩm quyền để quyết định đối với một vụ kiện hoặc một phần vụ kiện trong phạm vi thẩm quyền của hội đồng trọng tài được thành lập hoặc được thuê làm đại diện theo quy định tại Điều này.
  3. Theo yêu cầu của bên tranh chấp, hội đồng trọng tài được thành lập theo quy định của Điều này cùng lúc với việc treo quyết định của mình theo khoản 6 có thể cũng được quyền ra lệnh bảo lưu thủ tục phân xử của hội đồng trọng tài được thành lập theo quy định tại Điều 9.21 (Lựa chọn trọng tài viên) nếu như hội đồng trọng tài được thành lập theo cách đó đã đình chỉ thủ tục phân xử của mình.

Điều 9.28: Phán quyết trọng tài

  1. Trong quá trình đưa ra phán quyết cuối cùng của mình, hội đồng trọng tài có thể ban hành phán quyết đối với từng khía cạnh riêng lẻ của vụ kiện hoặc toàn bộ vụ kiện như:

(a) tiền bồi thường thiệt hại và lãi phát sinh; và

(b) hoàn trả lại tài sản. Trong trường hợp này, phán quyết trọng tài quy định bên bị đơn có thể thanh toán tiền bồi thường thiệt hại và lãi phát sinh thay cho việc hoàn trả tài sản.

  1. Nhằm giải thích rõ hơn, nếu nhà đầu tư của Bên tham gia Hiệp định nộp hồ sơ khởi kiện lên trọng tài theo quy định của Điều 9.18(a) (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài), phán quyết của trọng tài chỉ có thể đền bù cho những thiệt hại hay tổn thất mà nhà đầu tư đó có khả năng phải gánh chịu.
  2. Hội đồng trọng tài cũng ra phán quyết đối với các chi phí và phí luật sư mà các bênh tranh chấp phải chịu trong quá trình thực hiện thủ tục tố tụng trọng tài, cũng như phải quyết định cách thức và ai sẽ là bên phải thanh toán các chi phí và phí luật sư đó tuân thủ theo quy định trong Mục này và các nguyên tắc trọng tài hiện hành.
  3. Nhằm giải thích rõ hơn, đối với các vụ kiện trong đó có cáo buộc hành vi vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Mục A liên quan đến một nỗ lực thực hiện hoạt động đầu tư, khi một phán quyết được đưa ra có lợi cho bên bị đơn, các khoản bồi thường thiệt hại duy nhất mà bên đó được hưởng là các khoản mà bên nguyên đơn đã chứng minh được rằng chúng tương xứng với nỗ lực thực hiện đầu tư đó miễn sao bên nguyên đơn cũng chứng minh được rằng hành vi vi phạm đó là nguyên nhân trực tiếp nhất gây ra thiệt hại phải bồi thường. Nếu hội đồng trọng tài kết luận rằng những cáo buộc đó là vô căn cứ, hội đồng trọng tài phải quyết định cho bên bị đơn được hoàn trả các chi phí hợp lý liên quan và phí thuê luật sư.
  4. Căn cứ theo khoản 1, nếu hồ sơ khởi kiện được nộp lên trọng tài theo quy định tại Điều 9.18.1(b) (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài) và phán quyết của trọng tài được đưa ra có lợi cho doanh nghiệp:

(a) phán quyết trọng tài buộc bên thua kiện phải bồi hoàn tài sản phải bảo đảm việc bồi hoàn này phải được thực hiện đối với doanh nghiệp;

(b) phán quyết trọng tài buộc bên thua kiện thanh toán khoản tiền bồi thường thiệt hại và lãi phát sinh phải đảm bảo khoản tiền này được thanh toán cho doanh nghiệp; và

(c) phán quyết trọng tại phải bảo đảm rằng phán quyết được trọng tài đưa ra không gây phương hại đến quyền mà doanh nghiệp có thể được hưởng theo quy định trong luật pháp của mỗi nước liên quan đến các biện pháp khắc phục quy định trong phán quyết này.

  1. Hội đồng trọng tài không được phép đưa ra các phán quyết buộc bồi thường thiệt hại nhằm mục đích trừng phạt hoặc cảnh cáo.
  2. Phán quyết do hội đồng trọng tài đưa ra sẽ trở nên vô hiệu nếu như các bên tranh chấp không tuân thủ và nếu phán quyết đó không liên quan đến vụ việc cụ thể.
  3. Căn cứ theo khoản 8 và thủ tục đánh giá hiện hành đối với một phán quyết trọng tài tạm thời, bên tranh chấp phải ngay lập tức tuân thủ và chấp hành phán quyết trọng tài.
  4. Bên tranh chấp không được phép cưỡng chế thực hiện phán quyết cuối cùng của trọng tài cho đến khi:

(a) đối với phán quyết cuối cùng được trọng tài đưa ra theo quy định của Công ước ICSID:

(i) trong thời hạn 120 ngày kể từ ngày phán quyết được đưa ra và không bên tranh chấp nào yêu cầu xem xét lại hoặc hủy bỏ phán quyết đó; hoặc 

(ii) các thủ tục phân xử để xem xét lại hoặc hủy bỏ phán quyết đó đã hoàn tất; và

(b) đối với phán quyết cuối cùng được trọng tài ban hành theo quy định của Các nguyên tắc Năng lực bổ sung của ICSID hoặc các nguyên tắc lựa chọn theo quy định tại Điều 9.18.4(d) (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài):

(i) trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày phán quyết được đưa ra và không bên tranh chấp nào tiến hành thủ tục khởi kiện lên trọng tài để yêu cầu xem xét lại, đình chỉ hoặc hủy bỏ phán quyết đó; hoặc

(ii) tòa án trọng tài đã từ chối hoặc chấp nhận yêu cầu xem xét, đình chỉ hoặc hủy bỏ quyết định đó và không có bất kỳ thủ tục khiếu kiện gì khác phát sinh.

  1. Mỗi Bên tham gia Hiệp định phải quy định việc cưỡng chế thực hiện phán quyết trọng tài trong phạm vi lãnh thổ của nước mình.
  2. Trường hợp bên bị đơn không tuân thủ hoặc chấp hành phán quyết cuối cùng của trọng tài, khi nhận được yêu cầu từ Bên tham gia Hiệp định của bên nguyên đơn, một ban hội thẩm sẽ được thành lập theo quy định tại Điều 28.7 (Thành lập ban hội thẩm). Bằng cách thực hiện thủ tục trọng tài này, Bên tham gia Hiệp định có thể yêu cầu nhận được:

(a) quyết định cuối cùng của trọng tài mà khẳng định rằng hành vi không tuân thủ hay chấp hành phán quyết cuối cùng đó là không thực hiện đúng nghĩa vụ quy định trong Hiệp định này; và

(b) căn cứ theo quy định tại Điều 28.17 (Báo cáo ban đầu), một bản khuyến nghị yêu cầu bên bị đơn phải tuân thủ hoặc chấp hành phán quyết cuối cùng đó.

  1. Bên tranh chấp có thể yêu cầu trọng tài ra quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định trọng tài theo quy định của Công ước ICSID, Công ước New York hoặc Công ước Liên châu Mỹ, bất kể các thủ tục tố tụng nào theo khoản 11 được áp dụng.
  2. Hồ sơ khởi kiện theo thủ tục tố tụng trọng tài trong Mục này phải được xem như là được phát sinh từ mối quan hệ hoặc giao dịch thương mại được đề cập trong Điều I của Công ước New York và Điều I của Công ước Liên châu Mỹ.

Điều 9.29: Bàn giao hồ sơ, tài liệu

Bản thông báo và các hồ sơ, tài liệu khác khi gửi cho Bên tham gia Hiệp định phải ghi địa chỉ cụ thể của Bên đó theo quy định trong Phụ lục 9-D (Bàn giao hồ sơ, tài liệu liên quan đến Bên tham gia Hiệp định theo quy định của Mục B). Bên tham gia Hiệp định phải kịp thời công bố rộng rãi và thông báo cho Bên khác nếu thay đổi nơi nhận hồ sơ, tài liệu đó như quy định trong phần Phụ lục liên quan.

————————————————-

1 Nhằm giải thích rõ hơn, việc bao hàm phần định nghĩa về “chi nhánh” trong phần định nghĩa về “doanh nghiệp” và “doanh nghiệp của Bên tham gia Hiệp định” sẽ không gây ảnh hưởng đến khả năng của một Bên tham gia Hiệp định đối với việc xem một chi nhánh của doanh nghiệp nào đó trong luật pháp của mình là một đối tượng không có tư cách pháp nhân độc lập cũng như không độc lập về mặt tổ chức.

2 Một số loại nợ, bao gồm trái phiếu, tín phiếu và kỳ phiếu dài hạn, mang nhiều đặc điểm của một khoản đầu tư và những loại nợ khác như giấy báo thanh toán khi đến hạn và giấy báo thanh toán tiền mua hàng hóa, cung ứng dịch vụ mang ít đặc điểm tương tự như trên.

3 Khoản vay của Bên này cho Bên kia không phải là khoản đầu tư.

4 Bất kể là giấy chứng nhận, giấy ủy quyền, giấy phép hoặc các loạigiấy tờ tương tự (bao gồm việc nhượng quyền ở mức độ nào đó có tính chất tương tự các loại giấy tờ này) có đặc điểm như là một khoản đầu tư, tùy theo các yếu tố như tính chất và phạm vi của các quyền mà người đang nắm giữ có được theo quy định của pháp luật của Bên tham gia Hiệp định. Trong số các loại giấy tờ không có đặc điểm như là một khoản đầu tư là các loại giấy tờ không thiết lập bất cứ quyền nào được bảo hộ theo quy định pháp luật của Bên tham gia Hiệp định. Để chính xác hơn, những điều nói ở trên không ảnh hưởng đến việc xác định liệu một loại tài sản liên quan đến các loại giấy tờ nêu trên có đặc điểm như là một khoản đầu tư hay không.

5 “Văn bản thỏa thuận” có nghĩa là một thỏa thuận được lập thành văn bản, được đàm phán và thực hiện bởi cả hai bên, biểu hiện dưới hình thức là một văn bản cụ thể hoặc kết hợp nhiều văn bản với nhau. Nhằm giải thích rõ hơn, thuật ngữ này còn được hiểu như sau:

(a) một hành động đơn phương của cơ quan hành chính hoặc tư pháp, bao gồm việc cấp giấy phép, giấy chứng nhận, giấy ủy quyền, chứng chỉ, giấy xác nhận phê duyệt hoặc văn bản tương tự của một Bên thuộc thẩm quyền của mình, hoặc việc cấp một khoản trợ cấp, hỗ trợ, lệnh, phán quyến hay quyết định xét xử của riêng mỗi Bên; và

(b) lệnh hay phán quyết chấp thuận mang tính chất hành chính hoặc tư pháp sẽ không được xem như là một văn bản thỏa thuận.

6 Nhằm giải thích rõ hơn, văn bản thỏa thuận được ký kết và áp dụng sau ngày có hiệu lực của Hiệp định này không bao gồm thỏa thuận gia hạn thời gian hiệu lực của hợp đồng theo các điều khoản thỏa thuận ban đầu và giữ nguyên các điều khoản thỏa thuận ban đầu đã được ký kết và có hiệu lực áp dụng trước khi ban hành Hiệp định này.

7 Trong phần giải thích từ ngữ này, “cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương” là một cơ quan quản lý nhà nước cấp bộ của một quốc gia theo chế độ tập trung quyền lực. Quản lý nhà nước cấp bộ bao gồm các cơ quan chính phủ, bộ quản lý ngành hoặc các cơ quan quản lý nhà nước khác ở trung ương nhưng không bao gồm: (a) đơn vị chính phủ được thành lập theo hiến pháp, pháp luật của một Bên tham gia Hiệp định, có tư cách pháp nhân độc lập với các cơ quan chính phủ, bộ quản lý ngành hoặc các cơ quan quản lý tương tự theo quy định pháp luật của một Bên tham gia Hiệp định, trừ trường hợp hoạt động hàng ngày của đơn vị này do các cơ quan chính phủ, bộ quản lý ngành hoặc các cơ quan quản lý tương tự điều hành và giám sát; hoặc (b) đơn vị chính phủ chỉ hoạt động riêng biệt tại một khu vực hoặc tỉnh thành.

8 Nhằm giải thích rõ hơn, điểm này không đề cập đến hợp đồng đầu tư liên quan đến tài nguyên đất đai, nước hoặc phổ tần số vô tuyến.

9 Nhằm giải thích rõ hơn, điểm này được hiểu là không đề cập đến các dịch vụ phục hồi, chăm sóc sức khỏe, dịch vụ giáo dục, chăm sóc trẻ em, dịch vụ phúc lợi xã hội và các dịch vụ công ích tương tự.

10 Để đảm đảm bảo tính chính xác hơn, các trường hợp sau đây không được đề cập đến trong phần giải thích từ ngữ này: (i) các hành động của một Bên thực hiện để thực thi pháp luật mang tính chất áp dụng chung về cạnh tranh, môi trường, y tế hoặc các quy định pháp luật khác; (ii) các quy chế về cấp phép không phân biệt đối xử; và (iii) quyết định của một Bên ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư áp dụng đối với một dự án đầu tư được bảo đảm hoặc nhà đầu tư của Bên khác trong trường hợp quyết định này không do cơ quan có thẩm quyền quản lý đầu tư nước ngoài về cấp phép đầu tư ban hành. 

11 Trong phần định nghĩa này, “cơ quan có thẩm quyền quản lý đầu tư nước ngoài” kể từ ngày Hiệp định này được ban hành bao gồm: (a) ở Úc, cơ quan này là Bộ Ngân khố Úc theo cơ chế chính sách về đầu tư nước ngoài của Úc, bao gồm Đạo luật Mua lại và tiếp quản công ty nước ngoài 1975 của Úc; (b) ở Canada, cơ quan này là Bộ Công nghiệp nhưng chỉ áp dụng đối với trường hợp cơ quan này ban hành thông báo theo quy định trong Mục 21 hoặc 22 của Đạo luật Đầu tư của Canada, (c) ở Mexico, cơ quan này là Ủy ban Đầu tư nước ngoài Quốc gia (Comisión Nacional de Inversiones Extranjeras); và (d) ở New Zealand, cơ quan này là Bộ trưởng phụ trách tài chính, Bộ trưởng phụ trách ngư nghiệp hoặc Bộ trưởng phụ trách thông tin đất đai có thẩm quyền quyết định chấp thuận đầu tư theo Đạo luật Đầu tư Nước ngoài 2005.

12 Nhằm đảm bảo tính chính xác hơn, các Bên hiểu rằng, trong trường hợp các định nghĩa về “nhà đầu tư của Bên không tham gia Hiệp định” và “nhà đầu tư của Bên tham gia Hiệp định”, một nhà đầu tư “đang cố gắng thực hiện” một dự án đầu tư khi nhà đầu tư đó thực hiện bất kỳ hành động hoặc hành động cụ thể nào đó để thực hiện đầu tư như chuyển vốn và các nguồn lực khác để thành lập doanh nghiệp hoặc nộp hồ sơ xin giấy phép hoặc giấy chứng nhận. 

13 Nhằm đảm bảo tính chính xác hơn, thẩm quyền quản lý nhà nước được phân cấp theo quy định pháp luật của một Bên thông qua công văn bàn giao quyền soạn và ban hành các văn bản pháp luật, pháp lệnh, chỉ thị của chính phủ hoặc các biện pháp chuyển giao quyền thực thi thẩm quyền quản lý nhà nước.

14 Nhằm giải thích rõ hơn, bất kỳ phương thức đối xử áp dụng trong “các hoàn cảnh tương tự” theo quy định của Điều 9.4 (Nguyên tắc đối xử quốc gia) hay Điều 9.5 (Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc) cũng phải tùy thuộc vào tổng quan các hoàn cảnh, kể cả trường hợp phương thức đối xử phù hợp được áp dụng khác nhau đối với các nhà đầu tư hoặc các dự án đầu tư trên cơ sở các mục tiêu an sinh xã hội hiện hành.

15 Điều 9.6 (Chuẩn mực đối xử tối thiểu) được hiểu theo quy định của Phụ lục 9-A (Công pháp truyền thống quốc tế).

16 Các quy định trong Điều 9.7 (Thu hồi và bồi thường) được hiểu theo đúng với Phụ lục 9-B (Thu hồi) và Phụ lục 9-C (Thu hồi liên quan đến đất đai).

17 Nhằm giải thích rõ hơn, cụm từ “mục đích công ích” sử dụng trong Điều này giống với cách dùng cụm từ này trong công pháp truyền thống quốc tế.  Pháp luật của từng quốc gia có thể quy định cụ thể cho cụm này hoặc mang nét nghĩa tương tự thông qua việc sử dụng các cụm từ khác như “sự cần thiết cho công chúng”, “lợi ích của công chúng” hoặc “sử dụng của công chúng”. 

18 Các điểm sau đây được giải thích rõ hơn để tránh gây ra sự hoài nghi: (i) nếu quốc gia Brunei Darussalam là bên thu hồi, bất kỳ biện pháp thu hồi trực tiếp liên quan đến đất đai phải phục vụ cho mục đích được quy định trong Bộ luật Đất đai (Chương 40) và Đạo luật Thu hồi đất (Chương 41) tính từ ngày Hiệp định này có hiệu lực thi hành; và (ii) nếu quốc gia Malaysia là Bên thu hồi, bất kỳ biện pháp thu hồi trực tiếp nào liên quan đến đất đai phải phục vụ cho mục đích quy định trong Đạo luật thu hồi đất năm 1960, Sắc lệnh thu hồi đất năm 1950 của Bang Sabah và Bộ luật đất đai năm 1958 của Bang Sarawak được áp dụng tính từ ngày Hiệp định này có hiệu lực thi hành.

19 Nhằm giải thích rõ hơn, các Bên xác nhận rằng thuật ngữ “thu hồi” quyền sở hữu trí tuệ sử dụng trong Điều này bao gồm cả trường hợp đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyền này và thuật ngữ “giới hạn” các quyền sở hữu trí tuệ bao gồm cả các trường hợp ngoại lệ của các quyền này.     

20 Nhằm giải thích rõ hơn, các quy định trong Điều này phải phù hợp với Phụ lục 9-E (Các hoạt động chuyển giao).

21 Nhằm giải thích rõ hơn, vốn góp đầu tư sẽ bao gồm cả vốn góp ban đầu.

22 Nhằm giải thích rõ hơn, Điều này không gây cản trở cho việc áp dụng một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử và chân thành các quy định pháp luật của một Bên nào đó liên quan đến vấn đề an sinh xã hội, chế độ hưu trí hoặc tiền gửi tiết kiệm bắt buộc.

23 Nhằm giải thích rõ hơn, điều kiện nhận hoặc tiếp tục nhận một chế độ ưu đãi như quy định trong khoản 2 thì không được xem như là một “yêu cầu” hoặc “cam kết” theo như cách sử dụng trong khoản 1.

24  Trong Điều này, cụm từ “công nghệ của Bên tham gia Hiệp định hoặc của cá nhân thuộc Bên tham gia Hiệp định” bao gồm công nghệ do Bên tham gia Hiệp định hoặc cá nhân thuộc Bên tham gia Hiệp định sở hữu và công nghệ có giấy phép độc quyền do Bên tham gia Hiệp định hoặc cá nhân thuộc Bên tham gia Hiệp định đang nắm giữ.25  “Hợp đồng tác quyền” trong điểm này có nghĩa là bất kỳ hợp đồng nào liên quan đến việc cấp phép sở hữu công nghệ, quy trình sản xuất hoặc thông tin độc quyền.

26 Điều 31 được dẫn chiếu trong quy định này bao gồm quy định về việc chấm dứt thực hiện hoặc sửa đổi Hiệp định TRIPS quy định về việc thực hiện khoản 6 của Tuyên bố Doha về Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ và Y tế công cộng (WT/MIN (01)/DEC/2).

27 Các Bên tham gia Hiệp định nhận thức rằng bằng phát minh sáng chế không phải lúc nào cũng có thể tạo ra sức mạnh thị trường.

28 Đối với trường hợp của nước Brunei Darussalam, trong thời hạn 10 năm kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực thi hành hoặc đến khi nào quốc gia thành viên này lập cơ quan quản lý cạnh tranh, tùy theo việc nào đến trước thì việc dẫn chiếu các luật cạnh tranh có nghĩa là có xét đến các quy định cạnh tranh.

29 Đối với Việt Nam, Phụ lục 9-I (Cơ chế bánh cóc trong thực hiện biện pháp không tương thích) sẽ được áp dụng.

30 Nhằm giải thích rõ hơn, Bên này có thể yêu cầu Bên kia tiến hành bàn bạc, thảo luận liên quan đến một biện pháp không tương thích nào đó được áp dụng ở cấp quản lý trung ương như quy định trong khoản 1(a)(i).

31 Nếu như không phương hại đến quyền khởi kiện theo thủ tục trọng tài của bên bị đơn đối với các vụ kiện khác theo quy định trong Điều này, bên nguyên đơn không được phép nộp hồ sơ khởi kiện theo thủ tục trọng tài đối với các vụ kiện theo quy định tại điểm (a)(i)(B) hoặc điểm (b)(i)(B) trong trường hợp Bên tham gia Hiệp định quy định trong Phụ lục 9-H đã vi phạm quy định cấp phép đầu tư bằng cách đưa ra các điều kiện hoặc yêu cầu đối với việc cấp phép đó. 

32 Đối với trường hợp cấp phép đầu tư, khoản này sẽ chỉ áp dụng nếu việc cấp phép đầu tư, bao gồm các văn bản có hiệu lực sau ngày cấp phép đầu tư, sẽ thiết lập quyền và nghĩa vụ cho các bên tranh chấp.

33 Nhằm giải thích rõ hơn, nếu bên bị đơn quyết định công khai thông tin xét xử mà bên này có quyền từ chối cung cấp theo quy định tại Điều 29.2 (Trường hợp ngoại lệ về bảo mật) hoặc Điều 29.6 (Công bố thông tin), bên bị đơn đó vẫn có quyền từ chối công bố thông tin đó cho công chúng.

34 Nhằm giải thích rõ hơn, điều khoản này không phương hại đến hoạt động xem xét quy định pháp luật trong nước của bên bị đơn nếu việc này được xác định là phù hợp.

35  “Quy định pháp luật của bên bị đơn” có nghĩa là pháp luật mà tòa án hoặc hội đồng trọng tài trong nước có quyền hạn xét xử phù hợp sẽ áp dụng cho những vụ kiện giống nhau.  Nhằm giải thích rõ hơn, quy định pháp luật của bên bị đơn bao gồm luật pháp liên quan điều chỉnh hợp đồng đầu tư hoặc cấp phép đầu tư, kể cả luật pháp quy định về bồi thường thiệt hại, giảm thiểu thiệt hại, lợi ích và cấm phủ nhận.

(Bấm vào đọc chương 10 & 11)

Facebooktwitterpinterestlinkedinmail

Sáng Lập Đảng

Nguyễn Thái Học người Sáng Lập Việt Nam Quốc Dân Đảng

Tìm Bài Theo Tháng

Tự Điển Hỏi Ngã Tiếng Việt