Sách: Nguyễn Thái Học – Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nhượng Tống
Sách Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng của học giả Nhượng Tống gồm 43 chương, kể lại một cách trung thực và trách nhiệm của người cầm bút. Đây là tài liệu lịch sử quý giá, xin mời qúy vị đọc để thấy tinh thần yêu nước của tiền nhân chúng ta trong sáng đến mực nào! tấm gương yêu nước trong sáng chói rọi đến bao thế hệ mai sau. Sau đây chương XIV, XV và XVI
[Bấm vào đây đọc các chương trước]
CHƯƠNG XIV
Hồn Cách Mệnh và Việt Nam Khách Sạn
Trong năm 1928, mọi phương diện đều tiến hành một cách rất lạc quan. Sở dĩ được thế, cố nhiên là nhờ ở công sức của hết thẩy các đồng chí xa gần. Nhưng phần lớn cũng là nhờ ở sự tận tâm không bờ bến của Anh Học.
Thật vậy, Anh Học đã làm việc cho Đảng quên cả đêm, quên cả ngày, quên cả ăn, chỉ có không quên cái… ngủ! Không! Ta có thể bắt Anh nhịn đói, bắt Anh đi bộ vẹt cả gót giày, bắt Anh đủ mọi cái thiếu thốn về vật chất, nhưng đến lúc Anh buồn ngủ thì phải để cho Anh ngủ! Một lần có một tin gì, nghe ra khá nguy cấp, tôi lên Thư Xã tìm Anh. Tới nơi thì thấy Anh đương nằm chổng chân lên mà ngáy khò khò! Tôi lật ngửa Anh lại mà bảo:
– Học! Học! Mày có biết chuyện gì không!
Anh, mắt vẫn nhắm, miệng thì cười đáp tôi:
– Có! Có!
– Thế mà mày nằm đây được à?
– Thì cũng phải để cho tao ngủ chứ! Không ngủ, chết mất mạng, còn làm sao được việc đời!
Nói xong Anh khì khì cười, rồi lại nằm sấp mặt lại mà ngủ!
Sự tận tâm của Anh, các đồng chí ai cũng phải công nhận, coi Anh khác nào linh hồn của Đảng. Vì vậy, hồi tháng 7 năm 1928, Tổng Bộ hết hạn bầu lại. Anh lại được cử làm chủ tịch. Anh Nghiệp và tôi đều rớt ra ngoài Tổng Bộ, sau cuộc tuyển cử này.
Công việc hồi cuối năm ấy, tiến hành đều đều. Các thư ký, các giáo học, các nhà công thương xin vào đảng khá nhiều. Đáng chú ý nhất là trong quân ngũ, anh em rất tán thành chủ trương của Đảng. Ở Nam Việt, chúng tôi có đến 256 võ trang đồng chí. Ở Bắc Việt, cũng có đến ngót 400. Cho nên đến năm sau, khi việc Đảng phát lộ, nhà thực dân Pháp phải hoảng hồn! Trong lời buộc tội chúng tôi của quan chánh Hội Đồng Đề Hình, có câu:
“… Các giáo viên, các binh sĩ là hai cây cột chống đỡ mái nhà Đông Dương. Việt Nam Quốc Dân Đảng đã làm lay chuyển hai cây cột ấy!… Nguy hiểm nữa là những kẻ được họ rủ rê, vào thì vào, không vào cũng không một ai đi tố cáo các nhà đương cục (trừ Nguyễn Quốc Túy)! Sự im lặng đó, khác nào đồng mưu!…”
Tôi đã vui miệng kể lạc xa quá đề mục rồi! Tôi phải trở lại câu chuyện Hồn Cách Mệnh đã.
Đó là tên tờ báo, cơ quan của Đảng tôi, in bằng thạch và phát hành ngầm trong các đồng chí. Tòa báo ở đường Sơn Tây, do đoàn Học Sinh mà anh Đoàn Trần Nghiệp, tục gọi là Ký Con, coi việc ấn loát. Bài vở thì do Anh Học làm chủ bút. Giữ theo nguyên tắc, hết sức tránh các giấy tờ, tôi chẳng bao giờ biểu đồng tình với việc ấy. Tuy vậy, theo mệnh lệnh của Đảng, tôi cũng phải viết bài cho báo. Và còn viết cả cuốn sách, đề là “Cách Mệnh Tiện Thanh”, kể tội bọn thực dân gần mấy chục điều! Một cuốn sách như vậy, cố nhiên là cũng phải in lậu và phát hành trong bóng tối!
Tôi kể lại đây cái kỷ niệm một đêm ở tòa báo Hồn Cách Mệnh.
Tòa báo không có một ai, trừ ông chủ nhà in đó là anh Đoàn Trần Nghiệp! Nói là nhà in, nhưng chẳng máy móc gì cả! Mà không có cả đến giường, ghế, chỉ có một cái bàn, ngày là bàn viết, đêm biến thành cái bàn… nằm! Tôi đã nằm đó mà đọc cho anh Nghiệp viết mấy bài báo cho kỳ sắp ra! Rồi khuya khuya, bụng tôi thấy đói, tôi bảo anh Nghiệp:
– Tôi còn ba hào đây! Anh tìm cái gì ăn?
Anh Nghiệp cười:
– Đường này vắng, chẳng có hàng bán rong đâu. Chỉ góc đường đàng kia, có hai hàng bán thịt chó!
Thế rồi hai chúng tôi ăn vã thịt chó chấm nước mắm! Mà ăn bốc, vì chúng tôi không có bát, đũa gì.
Ăn xong, chúng tôi uống mấy ngụm nước máy rối ôm nhau mà nằm. Suốt đêm, anh Nghiệp không nói câu gì. Đó là một thói quen của anh. Vì thế tôi thường vẫn gọi là “con người biết cười chứ không biết nói”! Tôi không ngờ con người ấy mà về sau đã làm nên những sự nghiệp kinh thần, khốc quỷ ở đời!
Giờ, xin kể đến chuyện khách sạn Việt Nam. Việc ấy quyết định vào kỳ Hội Đồng Tổng Bộ ngày mồng 7 tháng 8. Đảng dùng nó làm cơ quan kinh tế, nghĩa là buôn bán để lấy lời giúp Đảng. Tiền vốn thì quyên trong anh em, người cho nhiều nhất là Hoàng Trạc và Đặng Đình Điển, người năm trăm, người một nghìn đồng. Ngày 30 tháng 9, khách sạn mở cửa, người làm chủ đến bồi bếp, toàn là đảng viên.
Những tên mật thám nhìn chúng tôi bằng con mắt hằn học, bảo chúng tôi thường dùng đó làm nơi hành lạc và họp hội đồng. Kỳ thực thì ngay trong các buồng khách sạn, họ đã phái người đến thuê để dò dẫm chúng tôi. Có bao giờ chúng tôi khờ dại mà họp hội đồng ở đó. Ban đầu, khách ăn rất là đông đảo. Vì cơm Tây, cơm Tàu, cơm Ta, ở đây đều làm khá ngon và bán giá hạ. Nhưng kẻ địch đã cho người phao tin, làm cho nhiều người sợ liên lụy không dám đến đó ăn nữa. Cho nên đến khi chúng tôi bị bắt, khách sạn đã lỗ đến cơ hồ hết cả vốn! Nghĩ ra, việc kinh doanh ấy thật là một việc thất sách của chúng tôi.
CHƯƠNG XV
Những Việc Tống Tiền
Cho được có tiền làm việc nước, các văn thân ta hồi xưa, nhiều khi đã dùng tới thủ đoạn ăn cướp, hoặc gọi là tống tiền.
Nghĩ ra, đối với những hạng cho vay hút máu của dân chúng, những hạng làm giàu bằng mọi lối tham ô, nhũng lạm, đối với họ dù có phá cái túi tham tàn, lấy đồng tiền tanh tưởi. để phụng sự một duyên cớ thiêng liêng, to tát cũng chẳng làm sao!
Thế nhưng Đảng tôi thì cấm chỉ việc ấy. Chỉ nghĩ rằng những việc ấy làm ra tất phải dùng đến tụi kẻ cướp. Mà tụi kẻ cướp thì có thể có những chuyện tàn bạo và lạm dụng. Cái đó sẽ mang tiếng lây đến Đảng. Một mặt thì những việc ấy tất phải có đồng chí chỉ huy. Nếu khi việc vỡ, thì người đồng chí ấy phải mất hết tất cả danh dự với con mắt quần chúng. Hy sinh tài sản, hy sinh tính mệnh, được! Thế nhưng bắt hy sinh đến danh dự, cái đó cũng thấy cực lòng cho các anh em.
Tuy Đảng có lệnh cấm, nhưng hình như trong vòng bí mật, Anh Học vẫn làm. Một là để làm tiền. Hai là tập cho đồng chí tinh thần phấn đấu, tinh thần mạo hiểm. Chứng cớ là một hôm anh sai tôi phải tìm nơi giấu một đồng chí vừa mới can vào một vụ cướp ở Ninh Bình.
Anh bảo tôi:
– Gởi anh ra khách sạn Nam Lai, buồng số 4, gõ cửa rồi lấy ngón tay trỏ đặt trước miệng làm hiệu. Anh dặn người ấy ở yên đấy, và sớm mai đi với anh lên Hòa Bình bằng ô tô hàng. Đến nơi, anh đem anh ta sang ngồi ở một cái hàng nước ở chợ Phương Lâm bên kia sông. Rồi anh lộn sang dinh Tuần Phủ Hòa Bình, nhờ ông ta che chở hộ cho đồng chí ấy.
Tôi đáp:
– Nhưng tôi không quen ông Tuần Phủ ấy. Họ lại trói cổ cả hai đứa lại thì chết cha!
Anh Học cười:
– Ông ta là người tốt, và biết tiếng anh qua các sách báo. Tôi đã cho điều tra, biết ông ta rất mến anh và ao ước được biết mặt anh. Vì thế mà tôi phải sai anh việc này. Anh liệu đó mà tùy cơ ứng biến.
Tôi đã làm theo lời Anh, vì đó là một mệnh lệnh mà tôi phải phục tòng tuyệt đối!
Dọc đường lên Hòa Bình, chúng tôi không nói với nhau câu nào cả. Tôi ngắm phong cảnh miền chung quanh: bãi cát trắng; dòng sông xanh; những hàng cây chênh chếch trên sườn núi; những túp nhà nho nhỏ chen trong các đám lá rừng; tất cả như một bức tranh Tàu dưới một ngọn bút tài tình của một danh thủ.
Khi đến trước dinh Tuần Phủ, tôi nghĩ: nếu lễ phép với người lính canh cửa, có lẽ không được việc. Tôi dùng một thủ đoạn nhỏ: ngồi trên xe, tôi vênh mặt nhìn trời, và cắp cái danh thiếp vào hai ngón tay mà vẫy người lính.
– Này bác! Cầm cái này đưa vào cụ, nói có tôi ở Hà Nội lên chơi!
Trúng kế, người lính khúm núm, hai tay đỡ danh thiếp đưa vào. Ba phút sau, ông Tuần Phủ Quách Vy hớn hở chạy ra. Ông kéo tôi ở trên xe xuống, khoác tay tôi dắt vào công đường.
Tôi vội vàng nói với ông:
– Chúng tôi có việc cần kíp, xin cho vào buồng riêng để tiện thưa chuyện.
Vào buồng riêng rồi, ông ngơ ngác hỏi tôi:
– Việc gì? Ông cứ dạy.
Tôi đáp:
– Thưa cụ, chúng tôi có người anh em, hiện bị Chính Phủ truy nã rất gấp. Giờ đem lên nhờ cụ che chở hộ.
Ông Quách trầm ngâm rồi hỏi:
– Thế ông bạn ở đâu?
– Ở bên chợ Phương Lâm.
Ông bèn gọi một người lính Mường, nói với họ một hồi tiếng Mường. Rồi quay lại bảo tôi:
– Ông sang bên chợ, bảo ông bạn đi theo tên lính này. Nhưng đi cách xa nhau chừng vài trăm thước. Tôi đã dặn nó dừng lại chờ ở một quãng vắng, đưa ông bạn vào trong đồn điền tôi. Ở đấy, có thể yên tâm không lo ngại gì! Xong việc, ông về đây chơi với tôi…
Tôi vâng lời, vội vàng quay ra. Rồi lại vội vàng quay về. Đêm hôm ấy, ông Quách đã phát thệ trước mặt tôi, vào Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Và năm sau, gặp nhau ở Côn Đảo, tôi mới biết người đồng chí mà tôi đem gửi ông Quách, tên là Ba Phang.
CHƯƠNG XVI
Cụ Phan Bội Châu
Có nhiều người tưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng của chúng tôi là một ngành của Việt Nam Quốc Dân Đảng do cụ Phan Bội Châu lập lên khi cụ còn ở Tàu.
Kỳ thực thì khi ở Tàu, cụ Phan mới có cái chương trình lập lên Việt Nam Quốc Dân Đảng mà thôi. Còn sự thành lập của Đảng chúng tôi, thì như trên tôi đã kể.
Tuy vậy, bảo Đảng chúng tôi là con đẻ tinh thần của cụ cũng chẳng có sao!
Và chẳng những thế, chúng tôi còn tặng cụ cái tên danh dự chủ tịch, và mong cụ giúp đỡ hai việc:
* Một là nhờ cụ đứng ra, đem oai quyền đạo đức mà thống nhất các Đảng lại.
* Hai là nhờ về phương diện ngoại giao, vì cụ quen thân với các yếu nhân ngoại quốc: Khuyển Dưỡng Nghị, Cung Ky Di Tàng ở Nhật, Tưởng Giới Thạch, Uông Tinh Vệ ở Tàu.
Vì vậy, hôm mồng 2 tháng 10 năm 1928 , Tổng Bộ đã cử ông Đặng Đình Điển vào Huế, để đạo đạt ý kiến anh em với cụ.
Hai ông già gặp nhau, rất là vui vẻ. Cụ Phan xin nhận là đảng viên của Đảng và nói: “Tôi già yếu thật, nhưng nếu còn có thể giúp ích được việc gì cho Tổ Quốc, thì tôi xin hết sức phục tòng mệnh lệnh của anh em!” Cuối cùng cụ giao cho ông Đặng tấm danh thiếp, phía sau đề bốn chữ “Khả dĩ đoạn kim”, phòng khi Đảng có phái người vào cụ thì cầm tấm thiếp ấy làm tin.
Đến cuối năm, ngày mồng 9 tháng 12, trong kỳ hội nghị bầu Tổng Bộ mới, nhân có việc định cử phái bộ ngoại giao sang Nhật và sang Tàu, Đảng liền cắt anh Học và tôi vào xin cụ viết cho mấy bức thư giới thiệu.
Tổng Bộ lần này là Tổng Bộ thứ ba, tổ chức theo điều lệ mới, gồm có hai ủy viên hội: Lập Pháp và Chấp Hành. Bên Lập Pháp, anh Nguyễn Khắc Nhu, hiệu Song Khê và tục gọi là Xứ Nhu làm chủ tịch. Anh Học làm phó chủ tịch. Bên Chấp Hành thì anh Nguyễn Thế Nghiệp đứng đầu. Về chương trình hành động, thêm ra một thời kỳ thứ tư là thời kỳ kiến thiết. Sau khi cách mệnh thành công, Đảng sẽ tổ chức một chính phủ cộng hòa, theo chủ nghĩa dân chủ xã hội.
Nhưng tôi hãy nói tiếp theo về việc cụ Phan Bội Châu.
Được lệnh anh em cử, tôi hẹn với anh Học mồng bốn Tết năm Kỷ Tỵ (1929) sẽ gặp nhau ở Hà Nội, rồi sẽ vào Huế.
Khi tới Hà Nội, tôi được tin tên Ba-gianh bị giết. Tôi đi tìm anh Học, mới biết đó là thủ đoạn của anh em trong Ám Sát Đoàn. Tôi bảo anh Học:
– Nếu vậy thì một mình tôi đi Huế thôi. Mệnh lệnh Đảng, cố nhiên phải phục tòng. Thế nhưng tôi bị bắt thì được, chứ Anh bị bắt thì không được! Đảng cần đến Anh hơn tôi.
Anh Học cho là phải. Chúng tôi liền uống với nhau một bữa rượu tiễn hành. “Ai hay vĩnh quyết là ngày sinh ly”.
Đêm hôm ấy, hai tôi đã cùng nhau chuyện trò, cười, khóc suốt đêm. Và từ đấy, tôi không được gặp anh Học ở trong đời nữa!
Khi tôi vào Huế, tìm vào đến nhà cụ Phan thì người nhà cho biết cụ ra chơi Cửa Thuận. Tôi vơ vẩn ở bờ sông Hương, ngóng thuyền cụ trở về. Ánh trăng soi sáng những bông lau, bông sậy nở dọc hai bờ sông, cho tôi một cảm giác mơ hồ… Tôi làm một bài thơ đề là “Qua Huế, thăm cụ Phan Sào Nam, không gặp, có cảm”. Hôm sau tôi đã đem bài thơ ấy đưa trình cụ:
Nguyên văn bài thơ
Diễn âm:
Trục trục trường đồ phú viễn chinh,
Thương tâm khiếp kiến cựu đô thành!
Nhân lòng túy mộng trung sinh tử!
Địa lịch tang thương kiếp biến canh!
Bích thủy nạn tiêu vong quốc hận!
Thương tùng trường tác bất bình minh!
Mỹ nhân thiên mạt tri hà xứ?
Minh nguyệt, lô hoa, vô hạng tình!
Dịch nghĩa:
Tất cả đường trường dám quản công!
Thành xưa nhìn lại giục đau lòng!
Sống hay, chết mộng người bao kiếp?
Biến đổi, dâu thay đất mấy vòng?
Nhục rửa sạch đâu, sông lộn sóng?
Uất còn chứa mãi gió gào thông!
Cuối trời đâu tá con người đẹp?
Thổn thức ngàn lau ánh nguyệt lồng.
Cụ gặp tôi, tỏ vẻ rất vui mừng.
Trò chuyện suốt một buổi trời, đức độ của cụ khiến lòng tôi chứa chan cảm động. Cảm động nhất là đến bữa ăn, trên mâm chỉ có một dĩa lòng lợn, một bát canh rau, và một phạng gạo bầu, đỏ ối! Tôi cùng ngồi ăn với cụ để được nhiều thì giờ mà nói chuyện. Nói đến chuyện chia rẽ của các đảng trong nước, tôi thở dài:
– Khổ nhất là người ốm nằm đó mà các thầy lang cứ cãi nhau mãi về y án!…
Cụ khen câu nói hay và hứa sẽ điều đình cho các đảng được mau hợp nhất. Về việc ngoại giao, cụ hẹn hôm sau đến, cụ sẽ giao cho những bức thư cần cụ viết. Tiếng cụ to, sang sảng như vàng đá. Và mỗi khi đắc ý, cụ lại tự xưng tên và nói một câu bằng chữ Nho…
Trời đã muộn, tôi cáo từ lui chân. Cụ tặng tôi cuốn Việt Nam Sử Lược của cụ viết bằng Hán văn, và vỗ vai tôi khi ra đến cổng ngoài:
– Thầy tỏ ra người làm được việc. Châu kỳ vọng ở thầy nhiều lắm!
Cố nhiên đó là một câu nói khuyến khích. Nhưng tội nghiệp! Tôi biết làm thế nào cho khỏi phụ những tấm lòng cha, anh, thầy, bạn mong chờ ở tôi?
Hôm sau tôi không được trở lại hầu cụ nữa, vì sở mật thám Huế đã đón tôi về Bắc rồi!
Tôi kể thêm ra đây câu chuyện một năm sau, anh em trong Đảng định đánh tháo đem cụ trốn ra ngoại quốc. Ấy là năm 1930. Anh Song Khê đã viết thư cho người đem vào trình cụ. Nguyên hồi xưa, cụ là bạn thân với cụ Cử Nội Duệ, thầy học anh Song Khê. Cái chí lớn của anh đã được lòng yêu của thầy và của cả bạn thầy. Cho nên được thư là cụ nhận ra ngay. Cụ rất mừng và rất vui lòng lại ra ngoại quốc để giúp việc ngoại giao cho Đảng. Về phần Đảng định dùng năm chiếc ô tô để đón cụ từ Huế qua Nam Quan! Đi đến đâu, sẽ sắp người cắt đứt dây thép, dây nói, và chặt cây, xếp đá ngang các ngã đường phía sau. Như vậy, quân địch dù có dùng ô tô để đuổi theo cũng không kịp.
Nhưng mưu đó đã không thành sự thực!
Và cụ đành ôm tấm lòng vì Đảng, vì nước, uất ức ở dưới Suối Vàng!