Sự minh bạch chủ nghĩa quốc tế của Hoa Kỳ, Toàn Cầu Hóa

Giáo Sư Richard L. Kugler

Giáo sư Richard L. Kugler (hình bên), giám đốc trung tâm kỹ thuật và Chính Sách An Ninh Quốc Gia, Đại Học Quốc Phòng Hoa Kỳ phát biểu:
“Chiến lược An ninh Quốc gia là sự mong đợi từ lâu cho thấy một bức tranh toàn mỹ về vai trò đang tăng lên của Hoa Kỳ trên thế giới đầu thế kỷ 21.Trái với những dự đoán của giới phê bình, chính sách này vừa không cường quyền vừa không đơn phương, cũng không tập trung quân sự đánh phủ đầu đối phương”.
“Thay vào đó, những lượng giá của bản chiến lược về giá trị và lợi ích đó là kết quả của “sự minh bạch về một chủ nghĩa quốc tế của Hoa Kỳ” nhằm tạo ra sự cân bằng quyền lực có lợi cho nền tự do của nhân loại và biến toàn cầu thành một nơi an toàn và tốt đẹp hơn”. Dưới đây là toàn bộ bài lược dịch của Giáo Sư Richard L. Kugler……

SỰ MINH BẠCH CHỦ NGHĨA QUỐC TẾ CỦA HOA KỲ VỀ TOÀN CẦU HOÁ (1)

Richard L. Kugler, Giáo sư – Giám đốc,
Trung tâm kỹ thuật và Chính Sách An Ninh Quốc gia,
Trường Đại Học Quốc phòng, Hoa Kỳ

Chiến lược An ninh Quốc gia được mong đợi từ lâu cho thấy một bức tranh toàn mỹ về vai trò đang tăng lên của Hoa Kỳ trên thế giới đầu thế kỷ thứ 21. Trái với những dự đoán của giới phê bình, chính sách này vừa không cường quyền vừa không đơn phương, cũng không tập trung quân sự đánh phủ đầu đối phương.Thay vào đó, những lượng giá của bản chiến lược về giá trị và lợi ích đó là kết quả của “sự minh bạch về một chủ nghĩa quốc tế của Hoa Kỳ” nhằm tạo ra sự cân bằng quyền lực có lợi cho nền tự do của nhân loại và biến thế giới thành một nơi an toàn và tốt đẹp hơn. Với dự định làm thế nào để sử dụng sức mạnh của Hoa Kỳ, chiến lược này dành sự chú ý đặc biệt đến việc giải quyết các an ninh nguy hiểm hiện nay và đối phó với sự đe dọa của khủng bố và thế lực độc tài. Mặt khác, chiến lược cũng mong muốn thúc đẩy nền dân chủ, tiến triển kinh tế toàn cầu, và tự do con người tại những vùng đang gặp rắc rối. Một trong những chìa khóa thành công của chiến lược này là thúc đẩy kinh tế các nước nghèo tăng trưởng gấp đôi trong vòng một thập niên tới. Chiến lược này chứng minh cho thế giới rằng, với tư cách là một siêu cường, Hoa Kỳ sẵn sàng theo đuổi các chính sách mới khi cần và có thể trái với những thực tiễn đã có. Nhưng chiến lược này cũng làm sáng tỏ rằng Hoa Kỳ sẽ là một nhà lãnh đạo có trách nhiệm đối với cộng đồng dân chủ thế giới và là tham gia vào các liên minh và tổ chức quốc tế, bao gồm cả Liên Hợp Quốc.

Chiến lược mới của Hoa Kỳ mang những tầm nhìn cao rộng và ước vọng có cân nhắc kỹ lưỡng, cũng như một sự phối hợp mang tính lưỡng đảng mang tính thay đổi mà vẫn tiếp tục. Chiến lược này cũng được điều chỉnh cho phù hợp với các hiểm họa đang nổi lên và những cơ hội tốt phía trước. Vấn đề trọng tâm không phải là sự đúng đắn về mặt nhận thức của chiến lược mà ở chỗ liệu chiến lược có nhận được các nguồn lực của Hoa Kỳ và sự hỗ trợ từ các cường quốc dân chủ để triển khai chiến lược hay không. Một vấn đề cũng không kém phần quan trọng là liệu chiến lược có đương đầu được với những thách thức có thể giải quyết hoặc rất khó vượt qua hay không. Phương cách giải quyết những vấn đề trên sẽ quyết định việc chiến lược này sẽ đạt được toàn bộ, một phần hay không đạt được các mục tiêu mong đợi. Chỉ thời gian mới trả lời, nhưng những năm tới hứa hẹn sẽ có nhiều sự kiện quan trọng bởi Hoa Kỳ mới đây đã khẳng định sự can dự toàn cầu của mình.

Ảnh hưởng của toàn cầu hoá

Điều làm cho Chiến lược An ninh Quốc gia mang đặc thù Hoa Kỳ là vì nó mang tầm cỡ toàn cầu thực sự. Trong khi hầu hết các quốc gia khác chủ yếu giải quyết những vấn đề thuộc các khu vực của họ, thì chiến lược của Hoa Kỳ gần như bao quát cả thế giới. Trọng tâm được đặt trên bình diện rộng như vậy vì Hoa Kỳ có những quyền lợi và giá trị đang bị đe dọa ở hầu như khắp mọi nơi. Hơn nữa, Hoa Kỳ còn cam kết an ninh với nhiều quốc gia ở nhiều khu vực, có sự hợp tác về kinh tế rộng khắp, và là thành viên của nhiều tổ chức khu vực và thế giới. Lời cáo buộc Hoa Kỳ thiên về hành động đơn phương là sai. Với tư cách là kiến trúc sư hàng đầu của các tổ chức và liên minh quốc tế thành công nhất của thế kỷ 20, hiện tại Hoa Kỳ vẫn là quốc gia mang tính đa phương nhất thế giới.

“Toàn cầu hóa” (Globalization) giữ một vai trò mạnh mẽ trước tầm nhìn của thế giới, vì sự hấp dẫn của nó buộc Hoa Kỳ suy nghĩ và hành động của mình phải tính đến nhiều khu vực trên thế giới. Ở đây, “toàn cầu hoá” không phải là một học thuyết hay một chính sách, mà là một xu thế thời đại thực tiễn: là tiến trình tăng cường các hoạt động quốc tế về thương mại, tài chính, đầu tư, công nghệ, vũ khí, thông tin, tư tưởng, các giá trị ở các lĩnh vực khác nữa. Kết quả là các vùng trước đây xa cách nhau thì hiện đang được kéo lại mỗi ngày một gần nhau hơn, những hoạt động chức năng trước đây thực hiện riêng rẽ thì nay đã có tương quan lẫn nhau, tốc độ thay đổi đang tăng dần cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng thắc chặt. Những sự kiện xẩy ra ở một nơi nào đó không còn bị cô lập bởi giờ đây chúng có thể có lan ra rất nhanh ở một nơi khác. Về thực chất, thế giới trở thành một sân khấu duy nhất trên đó có nhiều diễn viên – là các quốc gia, các tổ chức đa phương, các thể chế xuyên quốc gia – đóng các vai trò quan trọng và liên tục tương tác lẫn nhau. Nhiều nước buộc phải có quan điểm theo chủ nghĩa quốc tế này, và Hoa Kỳ là nước theo chủ nghĩa này mạnh hơn cả.

Là một xu thế không thể đảo ngược và có cơ sở vững chắc, toàn cầu hóa trong kỷ nguyên thông tin có thể là một động lực thực tế quan trọng của thời đại chúng ta, động lực này có thể tạo ra khuôn khổ hoạt động trong đó các động lực khác được phát triển. Ở mức độ nào đó, toàn cầu hóa đã được buông lỏng vì các nền dân chủ đã thắng lợi trong cuộc chiến đấu dằng dai với các chế độ độc tài toàn trị trong thế kỷ 20. Sự sụp đổ của thế giới lưỡng cực trong thời Chiến tranh Lạnh đã mở ra và bộc phát các hoạt động quốc tế, theo một cách sắp đặt trong đó chính thể đại nghị, thị trường tự do, quan hệ thương mại phồn thịnh và hợp tác đa phương đã trở thành mô hình cho tiến bộ và phát triển của nhân loại. Một vài năm trước đây, toàn cầu hóa được nhìn nhận đơn thuần ở khía cạnh tích cực vì nó giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sẽ làm xã hội thay đổi tốt hơn, nhưng gần đây kinh nghiệm cho thấy quá trình này có những mặt trái của nó. Toàn cầu hóa có thể gây mất ổn định ở một vài quốc gia, làm xa rời nền văn hóa truyền thống, và biến cả một khu vực trở nên dễ bị ảnh hưởng trước những biến động của kinh tế thế giới. Nó có thể làm những nước kém may mắn cảm thấy buồn lòng với số phận của mình, mất tinh thần khi đối mặt với những trở ngại ngăn cản phát triển. Thêm vào đó, nó cung cấp những kỹ thuật cao và các phương tiện hiện đại khác dùng để tấn công từ xa đến các thế lực độc tài, không chỉ với các quốc gia lận cận mà ngay cả Hoa Kỳ và đồng minh của Hoa Kỳ ở xa cũng làm được.

Một phần vì những tác động đa dạng của toàn cầu hoá, thế giới bị chia làm hai. Cộng đồng dân chủ, chiếm khoảng 30% dân số thế giới nhưng lại nắm giữ khoảng 70% của cải, luôn ổn định, đoàn kết và thịnh vượng. Nhưng ở những nơi khác, các điều kiện cơ bản chưa được tốt, tiến bộ và phát triển còn chậm. Đặc biệt là “vòng cung bất ổn phía Nam”, tập trung vào Trung Đông và vùng duyên hải châu Á. Khu vực rộng lớn này nằm trong hỗn loạn bởi một loạt những vấn đề như: không an ninh, mất cân bằng quyền lực, đói nghèo, chính phủ kém hiệu quả vì độc tài, thất nghiệp cao, và chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan. Kết quả là đã tạo ra mảnh đất màu mỡ cho những nguy cơ hiện nay, bao gồm khủng bố, độc tài chuyên chế, các chính phủ bất hảo, sự phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt (WMD), căng thẳng sắc tộc, các quốc gia lụn bại, thiếu hụt nguồn nhân lực và tài lực, kình địch về địa lý chính trị, buôn lậu ma tuý và tội phạm có tổ chức. Như được nêu trong Chiến lược An ninh Quốc gia, những vấn đề và nguy cơ này phải được đưa vào kiểm soát nếu muốn có một tương lai hòa bình và những cơ hội cho thế giới toàn cầu hoá.

Những đặc điểm chính của chiến lược

Chiến lược An ninh Quốc gia cũng bao gồm các đặc điểm mang đặc thù của nước Mỹ. Xuyên suốt thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ theo đuổi một sự kết hợp của các điều kiện an ninh ổn định, dân chủ hóa và phát triển kinh tế. Chiến lược mới áp dụng những giá trị bền vững này của học thuyết Hoa Kỳ trong những điều kiện biến động hiện nay. Để bảo vệ nước Mỹ trước những hiểm họa mới và mang lại những tiến bộ hòa bình cho các khu vực bất ổn định có nguy cơ bùng nỡ, tám đặc điểm chính của chiến lược kêu gọi những nỗ lực nhằm:

  1. Ủng hộ khát vọng vì nhân phẩm
  2. Củng cố các liên minh nhằm ngăn chặn và đánh bại chủ nghĩa khủng bố toàn thế giới.
  3. Hợp tác với các nước khác nhằm giảm các xung đột khu vực.
  4. Ngăn chặn kẻ thù đe dọa hòa bình với các loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt.
  5. Mở ra một kỷ nguyên mới tăng trưởng kinh tế toàn cầu thông qua thương mại và thị trường tự do.
  6. Mở rộng phạm vi phát triển thông qua việc quảng bá xã hội tự do và dân chủ.
  7. Xây dựng những chương trình nghị sự cho việc hợp tác với các trung tâm quyền lực chính của thế giới.
  8. Cải tổ các thể chế an ninh quốc gia và quân đội Hoa Kỳ.

Đáp lại biến cố 11- 9-2001 và những hậu quả của khủng bố, các biện pháp an ninh mạnh mẽ trở nên nổi bật trong chiến lược này. Chiến lược An ninh Quốc gia nêu rõ rằng Hoa Kỳ sẽ hành động mạnh mẽ để đánh bại bọn khủng bố quốc tế cũng như những kẻ bảo trợ cho chúng, ngăn cản chúng tấn công nước Mỹ và các nước bè bạn. Chiến lược cho thấy Hoa Kỳ sẽ không do dự hành động một mình nếu cần nhằm tiến hành các hành động quân sự tấn công bọn khủng bố. Nhưng chiến lược cũng tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ xây dựng liên minh với các nước bạn bè và đồng minh, và sẽ tiến hành một cuộc chiến tranh tư tưởng với chủ nghĩa khủng bố, ủng hộ các chính phủ ôn hòa trong thế giới Hồi giáo, và nỗ lực chận đứng sự lớn mạnh của khũng bố trước khi cải thiện những điều kiện kinh tế khó khăn cho họ.

Chiến lược An ninh Quốc gia cũng đưa ra lập trường vững chắc trong việc giải quyết vấn đề phổ biến WMD bởi những quốc gia bất hảo. Nó kêu gọi các biện pháp mạnh mẽ về an ninh trong nước, phòng thủ tên lửa, và nâng cấp lực lượng quân sự đủ khả năng thực hiện các biện pháp chủ động ngăn cản sự phát triển của WMD. Bản Chiến lược cũng chỉ rõ rằng Hoa Kỳ sẽ sẵn sàng – trên cơ sở hạn chế và có lựa chọn – tiến hành các cuộc tấn công phủ đầu chống lại các nước có ý đồ xấu trang bị WMD và bọn khủng bố đe dọa tiến hành những cuộc tấn công nguy hiểm. Nhưng Chiến lược cũng tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ hợp tác đa phương với các đối tác sử dụng các công cụ ngoại giao, kiểm soát vũ khí, kiểm soát xuất cảng, và đe dọa giảm viện trợ để ngăn chặn sự phát triển của WMD. Do đó, bản chiến lược kêu gọi các nỗ lực ngoại giao mạnh mẽ giúp làm giảm căng thẳng khu vực, ví dụ như xung đột giữa Israel và Palestin và xung đột giữa Ấn Độ – Pakistan, những cuộc xung đột nuôi dưỡng chủ nghĩa khủng bố, gia tăng WMD và các mối hiểm họa khác.

Những cáo buộc rằng Hoa Kỳ sẽ hành động như một bá quyền đơn phương trong việc giải quyết các vấn đề an ninh bị bác bỏ bởi lời kêu gọi nêu trong Chiến lược An ninh quốc gia vì sự hợp tác đa phương chặt chẽ với các đồng minh cũ và những nước hợp tác mới. Chiến lược nhấn mạnh nhu cầu của NATO cần chuẩn bị cho những nhiệm vụ mới, phát triển và cải tiến lực lượng quân sự châu Âu để có thể hoạt động song song và bên cạnh lực lượng quân đội được tổ chức lại của Hoa Kỳ. Với châu Á, bản chiến lược kêu gọi những đồng minh hiện tại của Hoa Kỳ như Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia trở thành trọng tâm của khu vực, sử dụng ASEAN và APEC để hỗ trợ phát triển. Điểm quan trọng là chiến lược cũng kêu gọi sự hợp tác với những nước cường quốc như Nga, Trung Quốc, Ấn Độ trong việc giải quyết các vấn đề an ninh. Thực ra, bản chiến lược này khẳng định rằng sự kết thúc của thời kỳ lưỡng cực đã mở ra quan hệ hòa bình giữa các nước lớn theo những cách thức có thể góp phần ổn định quan hệ chính trị toàn cầu trong nhiều năm, miễn là họ không muốn rơi vào thù địch.

Cũng như vậy, những lời cáo buộc rằng Hoa Kỳ chú trọng một cách hẹp hòi đến các vấn đề an ninh, chính trị và quân sự đều bị bác bỏ bởi việc Chiến lược An ninh Quốc gia kêu gọi những nỗ lực không ngừng nhằm thúc đẩy dân chủ hóa và phát triển kinh tế. Khoảng một nửa thế giới là các nước dân chủ, bao phủ từ Bắc Mỹ tới châu Âu, và phần lớn châu Á và châu Nam Mỹ. Chiến lược này hy vọng mở rộng dân chủ tới những khu vực mới nhằm thúc đẩy nhân quyền, cải thiện quản lý nhà nước và thúc đẩy tự do kinh doanh. Nó gợi ý các chính quyền độc tài có thể theo một lộ trình dần dần (read map) hướng đến dân chủ thông qua việc theo đuổi cải cách chính trị và xã hội dân sự. Nội dung kinh tế trong chiến lược đề cập đến những hiệp định song và đa phương hướng tới việc chia sẻ sự thịnh vượng từ những nước dân chủ giàu có sang những khu vực nghèo như châu Mỹ Latin, Trung Đông, Nam Á, châu Phi và một phần Đông Á. Nó không đề ra một viễn cảnh kinh tế kỳ diệu ở những khu vực này, thay vào đó là việc đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế hàng năm để nhân đôi của cải trong vòng mười năm tới. Bản chiến lược cho rằng nếu những nước dân chủ thịnh vượng có những nền kinh tế phát triển, thì điều này sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước nghèo thông qua đẩy mạnh xuất nhập khẩu. Tài liệu này cũng đánh giá rằng sự tự do về thương mại, đầu tư, các nguồn vốn, tài chính, và nâng cao năng suất lao động là cơ chế tốt nhất để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và xã hội. Chiến lược cũng kêu gọi Hoa Kỳ viện trợ kinh tế nhiều hơn thông qua Quĩ Thách thức Thiên niên kỷ, cũng như cấp thêm các khoản viện trợ không hoàn lại thay vì cho vay, cùng với sự giúp đỡ của Ngân Hàng Thế giới (World Bank) và Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF), song chỉ chủ yếu cho những nước đang theo đuổi việc điều hành có hiệu quả và tiến hành các cải cách kinh tế quan trọng mà viện trợ đóng vai trò quyết định. Cùng với khoản viện trợ này là những nỗ lực nhằm mục đích nâng cao sức khoẻ công cộng, các quyền lợi của người lao động, nâng cao giáo dục, các nguồn năng lượng mới, và kiểm soát môi sinh.

Triển vọng thành công

Mặc dù Chiến lược An ninh Quốc gia còn gây tranh cãi và hiểu nhầm ở nơi này, nơi khác, song triển vọng thành công là tương đối tốt nếu chiến lược này được thực thi mạnh mẽ và đúng đắn. Các nhà bình luận lưu ý rằng chiến lược mới thay đổi một số chính sách theo hướng bảo thủ: một ví dụ là rút khỏi Hiệp ước Kyoto về hiện tượng hâm nóng của trái đất. Nhưng thực tế quan trọng hơn là chiến lược này vẫn gắn chặt với truyền thống đồng thuận lưỡng đảng vốn là kim chỉ nam cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong nhiều năm. Không kém phần quan trọng, bản chiến lược còn làm thay đổi theo hướng ủng hộ những sự đổi mới nhằm đối phó với những nguy cơ và thay đổi nhanh chóng ở nước ngoài. Những chính sách mới mà lúc đầu tình cờ theo hướng đơn phương thường lại là những ứng cử viên cho chủ nghĩa đa phương mới: một ví dụ là việc Hoa Kỳ rút ra khỏi hiệp ước ABM lại dẫn tới một hiệp ước mới với Nga về cắt giảm vũ khí tấn công thậm chí ngay cả khi các hệ thống phòng thủ tên lửa mỏng đã được triển khai. Kết quả là, chiến lược mới dường như có khả năng giành sự nhất trí rộng rãi tại Hoa Kỳ cho dù những chi tiết cụ thể sẽ còn gây tranh cãi và chắc chắn sẽ còn phát triển cho tới khi nó thực sự hoàn thiện.

Ưu điểm chủ yếu của chiến lược này có tầm nhìn chiến lược, trọng yếu của nó gắn những nỗ lực về an ninh với chính sách kinh tế thành một khối chặt chẽ. Về cơ bản, chiến lược này kỳ vọng rằng với việc sử dụng các sức mạnh của Hoa Kỳ, phối hợp với sự trợ giúp từ những đồng minh thân cận và các nước dân chủ, nó có thể dẹp yên những hiểm họa đang nổi lên và thiết lập nền tảng ổn định an ninh tại những vùng hỗn loạn, dựa trên đó mới có thể xây dựng dân chủ và phát triển kinh tế. Những tiến bộ trong các vấn đề nói trên hy vọng sẽ cải thiện hơn nữa những căng thẳng về an ninh theo cách khuyến khích mở ra một kỷ nguyên mới về hợp tác quốc tế. Rõ ràng là chương trình nghị sự đầy tham vọng và đòi hỏi khắt khe này yêu cầu toàn bộ chính quyền Hoa Kỳ phải xem xét vấn đề an ninh quốc gia thật nghiêm túc trong những năm tới, và sử dụng tất cả các công cụ sẵn có. Những nguồn lực thích hợp trong mọi lĩnh vực cũng đóng vai trò thiết yếu.

Chiến lược An ninh Quốc gia kêu gọi những nỗ lực cải tổ quốc phòng, được hỗ trợ bởi ngân quĩ quốc phòng đang tăng lên. Điều này sẽ chuẩn bị cho các lực lượng quân đội Mỹ thích ứng với các nhiệm vụ chiến lược mới, bao gồm sự đáp ứng bất ngờ tại những vị trí địa lý không quen thuộc. Khi đẩy nhanh cải tổ, quân đội Mỹ sẽ có những mạng lưới thông tin, các kỹ thuật mới, và các khái niệm vận hành mới chuẩn bị cho các cuộc viễn chinh phối hợp. Hiệu quả của thay đổi này sẽ nhằm đảm bảo rằng quân đội Hao Kỳ là lực lượng hàng đầu thế giới, có khả năng đánh bại đối thủ tương lai nhanh chóng dù bất cứ nơi nào. Tuy nhiên, nỗ lực này phải đi kèm với những cố gắng tổ chức lại bộ máy hành chính an ninh quốc gia phục vụ các mục tiêu mới, củng cố bộ máy tình báo và thực thi pháp luật toàn cầu. Cũng cần thiết phải có cam kết cung cấp các nguồn lực đầy đủ để hỗ trợ ngoại giao Hoa Kỳ, trợ giúp kinh tế, các chính sách thương mại và các hoạt động khác của Hoa Kỳ. Quan trọng không kém là sự thành công của kỷ nguyên thông tin dựa trên tri thức. Khả năng của chính phủ Hoa Kỳ thu hút và sử dụng những chất xám cần thiết – qua đó hiểu được tình hình thế giới và đánh giá chính xác những hậu quả của các hành động của mình – là yếu tố tối quan trọng quyết định sự thành công của chiến lược mới.

Một thử thách mà chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục phải đối mặt là liệu họ có duy trì sự tập trung vào các lịch trình dài hạn hay không trong khi vẫn giải quyết các vấn đề sự vụ hàng ngày. Vì nước Mỹ không thể thực thi chiến lược này một mình, nên rất cần có sự thành công trong việc huy động trợ giúp từ các nước đồng minh, cũng như cải cách các liên minh cũ từ thời Chiến Tranh Lạnh để thực hiện những nhiệm vụ mới. Hội nghị Thượng đỉnh NATO tại Praha tháng 11 năm 2002 thành công là một bước tiến dài theo đúng hướng với nỗ lực kêu gọi thành lập một Lực lượng Phản ứng nhanh và các năng lực quân sự khác để triển khai sức mạnh quân sự. Cũng cần phải yêu cầu sự trợ giúp cả từ các nước lớn bên ngoài Hoa Kỳ và hệ thống liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo bao gồm Nga, Trung Quốc và Ấn Độ. Xây dựng quan hệ đối tác và liên minh vững chắc hơn với các nước tại các khu vực bất ổn là một yêu cầu quan trọng tiếp theo. Dù những xu hướng gần đây diễn ra theo chiều hướng tích cực, nhưng những nhiệm vụ này không dễ gì hoàn thành.

Cho dù có sự trợ giúp từ các đồng minh và đối tác, song rất nhiều vấn đề trên thế giới khó có thể sớm được giải quyết toàn bộ. Dẹp yên những mối hiểm họa là thực thi thành công nhưng khó khăn. Tạo an ninh hòa bình tại một số khu vực là có thể nhưng phức tạp. Trong khi quan hệ Nga – châu Âu có nhiều kỳ vọng, chính sách ba phần bao gồm duy trì quan hệ bình lặng với Trung Quốc trong hoàn cảnh châu Á biến động, làm nguội quan hệ thù địch Ấn Độ – Pakistan, ổn định khu vực Trung Đông vùngVịnh Ba Tư sẽ có sự ưu tiên cao. Cũng như vậy, việc thúc đẩy dân chủ và thịnh vượng kinh tế ở tất cả mọi nơi sẽ còn khó khăn và mất nhiều thời gian. Chiến lược mới của Hoa Kỳ do vậy sẽ phải tinh giảm, và chắc chắn sẽ phải đặt ra những ưu tiên hàng đầu và thừa nhận các giới hạn, thậm chí còn có thể chịu cả sự thụt lùi. Song cho dù chiến lược này chỉ thành công một phần theo nghĩa là đem lại sự an toàn cho nước Mỹ và các đồng minh của Mỹ, cộng với những tiến bộ đáng kể tại các khu vực bất ổn, thì nó cũng sẽ đạt được mục đích đề ra và có đóng góp giá trị.

———————————————————————————————————————–
(1) Những quan điểm nêu trong bài báo này là của riêng tác giả không nhất thiết phản ánh quan điểm hay các chính sách của Chính Phủ Hoa Kỳ.

Sáng Lập Đảng

Nguyễn Thái Học người Sáng Lập Việt Nam Quốc Dân Đảng

Tìm Bài Theo Tháng

Tự Điển Hỏi Ngã Tiếng Việt