Phỏng vấn Joseph S. Nye: Hung đồ của Trung Quốc và chính sách tái quân bình của Mỹ tại châu Á
Trong dịp thuyết giảng tại Đại học Oxford vào đầu tháng 6, Joseph S. Nye đã dành cho Samuel Ramani một cuộc phỏng vấn với toàn văn sau đây:
Chính quyền Obama đã thực hiện việc chuyển trục chiến lược về châu Á là một yếu tố chính trong chính sách đối ngoại. Tuy nhiên, việc chuyển giao rộng lớn các nguồn lực quân sự của Mỹ tại Thái Bình Dương đã bị chống trả bởi việc tập trung quân sự nhanh chóng của Trung Quốc. Kể từ khi sự hiện diện quân sự của Trung Quốc tăng lên với tốc độ nhanh hơn so với sự hiện diện của Mỹ, ông có nghĩ việc chuyển trục chiến lược về châu Á sẽ có hiệu quả trong việc cân bằng quyền bá chủ khu vực của Trung Quốc trong thời gian dài?
Tôi nghĩ cụm từ tái quân bình, một thuật ngữ mà chính quyền Obama thích sử dụng hơn tạo được nhiều ý nghĩa. Chuyển trục sang châu Á đúng hơn là một chính sách quân sự. Châu Á, đặc biệt là Đông Á, là một nơi tăng trưởng nhất của nền kinh tế thế giới và tôi nghĩ chính quyền Obama cảm thấy chúng ta đã chưa quan tâm đúng mức đến khu vực này. Vì vậy, việc tái cân bằng là một nỗ lực để tập trung vào các khu vực năng động nhất của nền kinh tế toàn cầu. Nó có một thành tố quân sự, như khi cam kết của Hoa Kỳ để có 60 phần trăm của lực lượng hải quân ở Thái Bình Dương vào năm 2020. Nhưng điều quan trọng là để nhấn mạnh tác động của Đối tác Xuyên Thái Bình Dương và những nỗ lực ngoại giao trong khu vực. Đối với các thành tố quân sự, Hoa Kỳ có khả năng với 10 hàng không mẫu hạm đặc nhiệm để gia tăng lực lượng trong khu vực Thái Bình Dương, nếu cần thiết. Vì vậy, khả năng của Hoa Kỳ đã vượt qua những lực lượng được đồn trú ở đó vào bất kỳ thời gian quy định nào; khả năng huy động các lực lượng bổ sung một cách nhanh chóng là một lợi điểm quan trọng. Ngoài ra, Hoa Kỳ vẫn giữ 50.000 quân tại Nhật Bản và 20.000 quân khác tại Hàn Quốc; mà một phần được hỗ trợ bởi các điều kiện ngân sách của Nhật Bản và Hàn Quốc. Vì vậy, tôi nghĩ rằng tái cân bằng hướng tới châu Á có ý nghĩa và chúng ta nên theo đuổi với chiến lược này.
Gần đây, sự va chạm đã trở nên to tiếng hơn giữa các đồng minh truyền thống của Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương, Nhật Bản và Hàn Quốc, đặc biệt là trong các cuộc thăm dò công luận. Tại sao ông nghĩ rằng việc bất hoà này đã lan rộng? Và có phải vị thế của Abe tỏ ra hung hăng đối với Trung Quốc đang gây bất ổn cho khu vực không?
Tôi không nghĩ là có những quan ngại nghiêm trọng bên trong Hoa Kỳ về những nỗ lực của Abe để cải thiện vị thế quốc phòng của Nhật Bản. Tôi nghĩ họ được hoan nghênh, nhưng tôi nghĩ Washington quan tâm về các mối quan hệ giữa Nhật Bản và Hàn Quốc. Lý do là có những nguy hiểm nghiêm trọng đến từ Bắc Hàn; và đối phó với mối đe dọa mà đòi hỏi phải có phối hợp chặt chẽ giữa Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Hoa Kỳ đã và đang làm việc trong bóng hậu trường và đôi khi công khai thuyết phục Nhật Bản và Hàn Quốc cải thiện sự hợp tác của họ, và thông qua các vấn đề lịch sử của họ, mà đó là một nguồn gốc chủ yếu của tình trạng căng thẳng. Điều đáng tiếc là có vài người trong giới hoạch định chính sách ở Nhật Bản và Hàn Quốc đang bị bám víu về những vấn đề trong những năm 1930, chứ không phải là suy nghĩ về những vấn đề của thế kỷ XXI.
Tập Cận Bình đã lên giọng điệu cao hơn theo chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc, mà đôi khi được coi là mở đầu cho tinh thần hiếu chiến của Trung Quốc. Ông có nghĩ rằng tình trạng trì trệ kinh tế ở Trung Quốc làm trầm trọng hơn cho chủ nghĩa dân tộc mới này không?
Tập Cận Bình cần một lực để làm chính thống hóa cho quyền lực của mình và quyền lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Tăng trưởng kinh tế trong lịch sử đã được xem là động cơ chính để chính thống hoá về quyền lực, đặc biệt là kể từ khi tầm quan trọng về ý thức hệ cộng sản đã suy giảm đáng kể. Từ khi kinh tế Trung Quốc sa sút, chủ nghĩa dân tộc tăng nhiều hơn, và tôi nghĩ chúng ta đang trải qua một giai đoạn của sự quan tâm cao độ về chủ nghĩa dân tộc. Tôi nghĩ chủ nghĩa dân tộc đã làm cho Trung Quốc giải quyết cuộc xung đột với các nước láng giềng ở Biển Đông khó khăn hơn. Vì vậy, đến nay không có dấu hiệu rõ rằng việc gia tăng chủ nghĩa dân tộc tại Trung Quốc sẽ dẫn đến xâm lược quân sự. Các cuộc họp cấp cao giữa Tập Cận Bình và Abe tại hội nghị thượng đĩnh APEC là một bước đi tích cực, khi Trung Quốc đã đề kháng với các cuộc họp này trong quá khứ. Nhưng tiềm năng để làm cho chủ nghĩa dân tộc sôi động là vấn đề mà chúng ta cần theo dõi chặt chẽ.
Barack Obama đã cáo buộc Tập Cận Bình trong việc cá nhân hoá quyền lực đến một mức độ lớn hơn bất kỳ một nhà lãnh đạo nào khác của Trung Quốc kể từ Đặng Tiểu Bình. Cá nhân hóa quyền lực này đã trùng hợp với sự nhấn mạnh của Tập Cận Bình trong việc nghiêm trị tham nhũng trong nội bộ ĐCSTQ. Ông có nghĩ rằng các chiến dịch chống tham nhũng đã tăng cường cho triển vọng sống còn của chế độ và gây cho Trung Quốc nghiêng theo một chiều hướng thậm chí còn độc đoán hơn?
Tôi nghĩ các chiến dịch chống tham nhũng là một thành tố không thể thiếu trong mục tiêu Tập Cận Bình để chính thống hoá cho đảng và gia tăng sức mạnh của đảng. Những người đầu tiên chạm phải chiến dịch chống tham nhũng là những đối thủ chính trị có tiềm năng, nhưng tôi nghĩ Tập Cận Bình thừa nhận sự bất mãn phổ biến đối với tham nhũng trong Đảng Cộng Sản. Sự đàn áp tự do chính trị, tự do ngôn luận, thảo luận học thuật, những gì có thể được in trên báo, cách thắt chặt sự kiểm duyệt Internet, và vân vân là vấn đề mà tôi lo lắng hơn là những chiến dịch chống tham nhũng. Tôi nghĩ các suy sụp trong những loại tự do dân sự liên quan chặt chẽ với những nỗ lực của ông ta để củng cố quyền lực, và chúng ta phải theo dõi nếu đây là một xu hướng ngày càng thắt chặt hơn theo thời gian, hoặc là một giai đoạn tạm thời.
Ông có tin rằng chế độ toàn trị gia tăng và phân hoá giữa các tầng lớp lãnh đạo phát sinh do các chiến dịch chống tham nhũng có thể gây ra một tình trạng bất đồng gây gắt trong giới này ở Trung Quốc mà làm cho quyền lực Tập Cận Bình giảm đi?
Chuyện có thể hiểu được là có thể có chia rẽ trong nội bộ của giới thượng tầng, nhưng tôi nghĩ đây là một kết quả không có thể xãy ra. Tôi nghĩ các kịch bản có thể xảy ra nhất sẽ là nếu các máy bay và tàu chiến của Trung Quốc tham gia vào vụ xung đột với Nhật Bản ở quần đảo Điếu Ngư, và bị thua. Sức mạnh quân sự của Nhật có khả năng vượt trội trong các biến cố xung đột, và một thất bại ở đây sẽ là một mối đe dọa trực tiếp đến quyền lực của Tập Cận Bình.
Gần đây, Trung Quốc đã kết ước quan hệ đối tác kinh tế chặt chẽ hơn với Nga. Ông có nghĩ rằng chiến lược tái cân bằng đối với Trung Quốc của Putin sẽ có hiệu lực trong thời gian dài hoặc lợi ích chiến lược của Trung Quốc ở Trung Á sẽ làm suy yếu triển vọng hợp tác Hoa-Nga?
Tôi nghĩ mối quan hệ Hoa-Nga là một liên minh của sự thuận tiện chứ không phải là một liên minh thực sự. Nga-Hoa vẫn có những nghi ngờ tồn động lẫn nhau; và Trung Quốc nhận ra rằng một liên minh với Nga có thể thoả hiệp về mối quan hệ đối tác chiến lược có lợi hơn, giống như mối quan hệ của Trung Quốc với Hoa Kỳ. Các quyền lợi chính của Trung Quốc tại Nga và đặc biệt là tại Siberia là nguồn lực để duy trì tăng trưởng kinh tế cho Trung Quốc. Tăng ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực dân cư thưa thớt tại Siberia chắc chắn gây ra sự lo lắng cho các nhà lãnh đạo Nga.
Về mặt liên quan đến Trung Á thì Liên minh Kinh tế Á-Âu của Putin và chương trình Nhất Đái, Nhất Lộ của Trung Quốc có thể gây xung đột tại một số điểm. Để điều đó xảy ra, Liên minh Kinh tế Á-Âu sẽ phải mở rộng ảnh hưởng hiện tại. Có một khoản tiền nhất định dành cho cơ sở hạ tầng trong các chương trình của Trung Quốc sẽ kết nối Trung Quốc với Trung Á, với Nga và cuối cùng với châu Âu, nhưng tôi không nghĩ là hoàn cảnh hiện nay đưa đến một cuộc xung đột Nga Hoa.
Trung Quốc đã tăng nhiều đầu tư kinh tế trong vùng Sub-Sahara của châu Phi. Ở vài nước châu Phi công luận đối với Trung Quốc tiếp tục thuận lợi, chứng minh có một sự gia tăng quyền lực mềm của Trung Quốc trong khu vực này. Ông có nghĩ rằng Trung Quốc đã nắm vai trò lãnh đạo không thể vượt qua mặt được trong việc khai thác tiềm năng dân số và kinh tế phát triển của châu Phi một cách nhanh chóng không? Hoa Kỳ có thể làm gì để phản công trước sức bật ngày càng tăng của Trung Quốc ở châu Phi?
Tôi không nghĩ rằng có một cuộc xung đột về lợi ích giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ về các nguồn lực kinh tế. Nhu cầu của Trung Quốc đã tạo ra một thị trường mới rộng lớn cho việc xuất khẩu sang châu Phi; nhưng triển vọng của Trung Quốc thống trị châu Phi là rất thấp. Châu Phi không muốn bị lệ thuộc vào quyền bá chủ của Trung Quốc nhiều hơn là họ muốn được châu Âu cai trị. Trung Quốc sẽ có ảnh hưởng ở châu Phi như một kết quả của việc mua hàng của mình, nhưng nếu tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng với lao động Trung Quốc và các nhà quản lý Trung Quốc trong ngành công nghiệp khai thác như khai khoáng hầm mỏ, có thể là có một phản ứng dữ dội. Các cuộc biểu tình của các thợ mỏ người Zambia chống lại sự tham gia của Trung Quốc trong ngành công nghiệp đồng là một ví dụ điển hình cho triển vọng này.
Trung Quốc đã tìm cách để cùng lúc tăng quyền lực cứng về kinh tế và quân sự và quyền lực mềm (thông qua các Viện Khổng Tử, Thế vận Hội, vv). Làm thế nào Trung Quốc thành công trong việc tăng quyền lực mềm và cân bằng quyền lực mềm với quyền lực cứng một cách có hiệu quả, đủ để có một quyền lực thông minh?
Quyền lực mềm tại Trung Quốc chắc chắn tăng lên sau khi Thế vận Hội năm 2008 và sau triển lãm Thượng Hải, và sau đó Trung Quốc giam Lưu Hiểu Ba, và tạo một ghế trống tại lễ trao giải Nobel tại Oslo làm giảm đi quyền lực mềm của Trung Quốc. Cách đối xử của Trung Quốc với xã hội dân sự có xu hướng tác hại đến thành công của Trung Quốc đến sức mạnh mềm của Trung Quốc. Ngoài ra, hành vi không nhất quán của Trung Quốc đối với các tác nhân khác trong khu vực gây hại cho quyền lực mềm. Ví dụ, Trung Quốc đã gia tăng căng thẳng quân sự với Philippines đã phá tan thành quả quyền lực mềm do thành lập một Viện Khổng Tử ở đó. Cho đến nay, việc chuyển đổi của Trung Quốc từ quyền lực cứng và mềm qua dạng quyền lực thông minh đã ngăn chận một liên minh thù địch đang phát triển trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nhưng Trung Quốc đã không được thành công như họ đã hy vọng.
Cuối cùng, chiếu theo những lời lẽ thay đổi của chính quyền Obama về chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc, ông có tin rằng Mỹ nên đối xử với Trung Quốc như một đối tác chiến lược hay kẻ thù?
Tôi nghĩ cho đến ngày nay chiến lược đề ra trong thời chính quyền Clinton vẫn là chiến lược đúng đắn. Chiến lược của Clinton tập trung vào việc hội nhập Trung Quốc vào trong một hệ thống kinh tế thế giới, chẳng hạn như việc gia nhập WTO. Kể từ đó, Trung Quốc đã cố gắng nâng cao vai trò của mình trong hệ thống tiền tệ quốc tế thông qua các dự án như Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng châu Á (AIIB) mà không cần làm xáo trộn trật tự Bretton Woods hiện có. Đồng thời, chiến lược Clinton đã làm đảm bảo cho Trung Quốc không trở thành một kẻ hù doạ khi củng cố Hiệp ước An ninh Mỹ-Nhật. Chính sách này đã hoạt động dưới thời các chính quyền của Clinton, Bush 43 và Obama; và tôi nghĩ rằng chiến lược này là chính xác.
Chú thích:
Joseph Nye là một Giáo sư Thượng hạng Đại học Harvard. Ông cũng là cựu Khoa Trưởng của John F Kennedy School of Government tại Harvard, Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng cho chính quyền Clinton từ 1994-1995, và là thành viên của Hội đồng Chính sách Ngoại giao. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách, gần đây nhất là Is the American Century Over?
Samuel Ramani là sinh viên ban Cao học Triết chuyên ngành nghiên cứu Nga và Đông Âu tại trường Cao đẳng St. Antony, Đại học Oxford. Ông cũng là một cộng tác viên thường xuyên cho Huffington Post Politics và World Post.
Tác giả: Samuel Ramani
Người dịch: Đỗ Kim Thêm