Ông Sang đến Washington – Greg Rushford
Greg Rushford cựu bình luận nhật báo Washington. Nay ông là chủ nhân của The Rushford Report (Rushfordreport.com) từ năm 1995. Trước khi bước vào nghề báo, Greg từng là phụ tá điều tra an ninh cho Quốc Hội Hoa Kỳ, ông là tác giả cuốn sách nỗi tiếng Appointments with Power, và cùng viết cuốn Washington Really Works for Dummies (2012). Ông cộng tác với Wall Street Journal Asia, ForeignPolicy.com, và the Milken Institute Review với những bài viết có nội dung giá trị. Rushford đặc biệt thích đến tận nơi để viết bài như Hong Kong, Singapore, Seoul, Tokyo, Manila, Bangkok, Hanoi, HCM city (Saigon), và những vùng đất châu Á khác. Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của Trương Tấn Sang ngày 25/07 vừa qua, ông có bài viết Ông sang đến Hoa thịnh Đốn (Mr. Sang comes to Washington) bài viết có cái nhìn sâu sắc và am tường về tình hình chính trị Việt Nam (1) – chuyển ngữ: Phạm Vũ Lửa Hạ.
Ông Sang đến Washington
Chủ tịch Sang và Tổng thống Obama có cơ hội vun đắp mối quan hệ song phương (tôn trọng lẫn nhau) sâu sắc hơn. Nhưng vẫn chưa rõ liệu có vị lãnh đạo nào có tầm nhìn hay bản năng chính trị cần thiết để nắm bắt cơ hội này hay không. Hai vị nguyên thủ quốc gia này có thể chỉ cố gắng tán dương cho hấp dẫn, mong sao bỏ qua những bất đồng quan trọng về các vấn đề cốt lõi hiện đang chia rẽ Washington và Hà Nội. Trong đó, hai vấn đề nan giải nhất là: những cách hành xử nhân quyền của Việt Nam xúc phạm các chuẩn mực luật pháp quốc tế được chấp nhận (theo cách nhìn của Washington), và các áp lực kinh tế đầy xúc phạm của nước giàu (quan điểm của Hà Nội).
Nhà Trắng đã liệt kê “nhân quyền” là chủ đề đầu tiên trong ba chủ đề sẽ có trong chương trình nghị sự khi hai vị lãnh đạo gặp nhau hôm Thứ Năm. “Biến đổi khí hậu” là ưu tiên thứ hai được nêu, và tiếp theo là các cuộc đàm phán thương mại Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) với sự tham gia của Mỹ, Việt Nam, và 10 nước Châu Á- Thái Bình Dương khác.
Nhưng chương trình nghị sự thực sự lại rộng hơn, gồm những quyết định căn bản mà cả hai nước cần đưa ra về việc liệu có nên tăng cường hợp tác chiến lược và an ninh giữa hai nước hay không. Nhà bình luận sắc sảo David Brown, một cây bút đặc biệt cho tờ Asia Sentinel, đã viết rằng Chủ tịch Trương Tấn Sang và Bộ Chính trị dường như đã “bị lay chuyển” khi ông Sang thăm Bắc Kinh vào tháng Sáu. Có vẻ như trong các cuộc hội đàm kín với những vị lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc, trong đó có Chủ tịch Tập Cận Bình, chủ tịch nước Việt Nam ra về với những lời lẽ tốt đẹp, nhưng chẳng có gì thực chất. Do “cuộc gặp rõ ràng đáng thất vọng với các lãnh đạo của Trung Quốc”, tác giả Brown viết, một cuộc viếng thăm “vội vã” đến Washington được sắp xếp sau đó. Ở Washington, Bộ Chính trị muốn Chủ tịch Sang tìm hiểu xem liệu Tổng thống Obama – một chính khách, theo cách nhìn của một số người Châu Á, nổi tiếng là chủ yếu nói toàn điều hay ý đẹp trong các cuộc tiếp xúc với các nguyên thủ nước ngoài – sẽ có giúp ích được gì hơn hay không.
Cả hai chính phủ đều không tiết lộ thêm chi tiết về nội dung hội đàm giữa Trương Tấn Sang và Obama vào hôm Thứ Năm. Một phát ngôn viên Nhà Trắng thậm chí còn không cho biết hai vị nguyên thủ sẽ hội đàm ở phòng nào trong Nhà Trắng, chứ đừng nói gì đến chuyện cho biết tên những nhân vật khác sẽ có mặt trong phòng họp.
Nhìn kỹ mỗi đề mục trong ba vấn đề cụ thể trong chương trình nghị sự hội đàm Sang-Obama, ta thấy với mỗi vị nguyên thủ, bất cứ trao đổi ngoại giao thật sự “thẳng thắn” nào cũng sẽ đặt ra những câu hỏi gây khó xử, đó là chưa kể các tình huống làm bẽ mặt lẫn nhau.
Với Trương Tấn Sang, câu hỏi gây khó xử sẽ là giải thích cho Obama hiểu giới lãnh đạo Việt Nam nghĩ là họ thực sự được lợi gì khi giam giữ hơn 160 tù chính trị. Đây là những công dân Việt Nam không phạm “tội” gì cả – ngoài việc lên tiếng hòa nhã than phiền rằng chính quyền của họ bị xem là ngày càng tham nhũng và thiếu trách nhiệm giải trình. Và Obama có thể hỏi về một nghị định của Hà Nội ngày 15/7 nhằm cấm ngôn luận “chống lại nhà nước của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, hay bất cứ ý kiến phê phán nào mà đảng e ngại có thể “gây nguy hại cho an ninh quốc gia”, theo tường thuật của Đài Á Châu Tự Do. Nghị định này ngắm đến các biểu tượng internet phổ biến như Google và Facebook.
Dĩ nhiên, luôn nan giải cho người Mỹ khi bày tỏ các quan điểm hợp lý về nhân quyền mà không có vẻ ngạo mạn hay dạy đời dưới con mắt của giới lãnh đạo Việt Nam luôn nhạy cảm. Nếu bị gây sức ép quá nặng nề, hay quá công khai, cộng sản có thể chỉ việc bắt bớ thêm nhiều blogger vô tội để dằn mặt người Mỹ. Nếu Mỹ không làm căng, chính quyền Hà Nội có thể cứ tiếp tục làm bất cứ chuyện gì họ thích. Xưa nay, chưa ai thực sự hình dung được ngôn ngữ ngoại giao phù hợp nhất.
[Và nếu giọng điệu của Obama về nhân quyền xúc phạm Trương Tấn Sang, Chủ tịch Việt Nam có thể nêu ra vấn đề dioxin. Trương Tấn Sang có thể hỏi liệu vị lãnh đạo Mỹ có thấy xấu hổ về việc một phát ngôn viên của Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội gần đây phủ nhận với Drew Brown, phóng viên của McClatchy, rằng không có chuyện nhiều công dân Việt Nam ngày nay vẫn chịu những ảnh hưởng thảm khốc của dioxin do Không lực Hoa Kỳ rải trên đất Việt Nam trong thời kỳ bắn phá.]
Với Obama, có lẽ điều khiến bẽ mặt nhất là Nhà Trắng của ông – vì những lý do hoàn toàn mang tính cục bộ địa phương trong nước liên quan đến những quan hệ chính trị của ông với các nghiệp đoàn Mỹ và sự vận động hành lang của ngành dệt Mỹ không có khả năng cạnh tranh toàn cầu – đã quá quắt đưa ra những yêu sách đối với Việt Nam trong các cuộc đàm phán thương mại TPP mà Bộ Chính Trị có họa là dại dột mới chấp nhận. Quả thực, những áp lực kinh tế khá thô thiển của Obama lâu nay đang tạo ưu thế cho những người ở Hà Nội ngày càng nghi vấn giá trị của các mối quan hệ thương mại và chiến lược mật thiết hơn với Mỹ.
Ngoài khả năng có thể làm bẽ mặt lẫn nhau, hóa ra điều mà Nhà Trắng muốn bàn về biến đổi khí hậu cho thấy (rất có thể ngoài dự kiến của cả Trương Tấn Sang lẫn Obama) việc tăng cường quan hệ kinh tế song phương đã trở nên phức tạp đến mức nào.
Quyền lực chính trị và điện lực
Về biến đổi khí hậu, có thể Obama chỉ muốn đánh bóng phẩm chất ‘xanh” của mình bằng cách giảng cho Chủ tịch Sang một bài hay về tầm quan trọng của việc các quốc gia hợp tác với nhau để giải quyết tình trạng địa cầu ấm lên.
Nhưng còn một điều quan trọng khác đang diễn ra giữa Washington và Hà Nội cho thấy ý nghĩa chính trị của vấn đề biến đổi khí hậu đã xen vào mối quan hệ song phương ra sao. Không chắc là nhân viên Nhà Trắng – hiện nay dường như phải dàn sức đảm đương quá nhiều việc – đã báo cáo tóm lược cho Obama biết về các tác động của một quyết định hồi tuần trước của Ngân hàng Xuất nhập khẩu Mỹ (Eximbank) từ chối dùng nguồn vốn tài trợ xuất khẩu của Mỹ để xây một nhà máy nhiệt điện chạy bằng than công suất 1.200 megawatt ở tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Nhưng chắc chắn, chủ tịch Sang không cần được báo cáo tóm lược đặc biệt mới hiểu trọn vẹn các tác động do hành động của Mỹ. Sở dĩ như vậy là do quyết định của Eximbank đi thẳng vào trung tâm của cách thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam ngày nay – và chạm đến những cái đầu nhạy cảm trong Bộ Chính Trị.
Trong một bức thư ngày 17/7 gởi cho tổng thống Obama, Greenpeace, Friends of the Earth và các tổ chức môi trường khác phàn nàn rằng “nhà máy chạy bằng than bẩn này sẽ gây ô nhiễm ở mức không thể chấp nhận được mà sẽ làm trầm trọng hơn tình trạng xáo trộn khí hậu và đầu độc các cộng đồng địa phương”. Kế hoạch hành động về khí hậu của Obama, họ nhận xét (rất đúng), phản đối việc Mỹ tài trợ cho các dự án than ở nước ngoài, với lý do là chúng làm tăng lượng khí thải nhà kính.
Các nhóm vận động hành lang về môi trường đã khắc họa chính xác các chính sách hành động về khí hậu của Obama. Quy định hướng dẫn của ngân hàng Eximbank về cơ bản không tài trợ cho các dự án nước ngoài có độ carbon cao chẳng hạn như các nhà máy than. Hiện nay, Eximbank quan tâm hơn đến việc tham gia vào các dự án năng lượng có thể tái tạo. Dù sao, sau khi thực hiện một cuộc “thẩm định chi tiết”, cơ quan tài trợ xuất khẩu Mỹ đã phát hiện rằng nhà máy ở Thái Bình không hội đủ tiêu chuẩn. Vì thế, ngân hàng không kiểm tra các chi tiết khác của dự án: vốn tài trợ, mức độ khả tín, vân vân.
Phần lớn những điều nêu trên đã được các hãng tin Mỹ đưa – nhưng phần hay nhất của câu chuyện này lại không được tường thuật: chính xác là ai đã muốn nguồn vốn tài trợ xuất khẩu của Mỹ cho Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình?
Eximbank không nêu những chi tiết như vậy trong tài liệu công bố công khai trước khi các dự án được phê chuẩn, nhưng tìm hiểu thêm một chút thì thấy rằng người ta mong có nguồn vốn của Eximbank để giúp một trong những đại tập đoàn quốc doanh của Việt Nam, Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (tự gọi mình là PV Power). PV Power là công ty con của Tập Đoàn Dầu khí Quốc Gia Việt Nam (tên tắt là PVN). Theo một bản tin tiếng Việt năm 2011, Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 của PV Power là một dự án trị giá 1,6 tỉ Mỹ kim. Các đơn vị chính là các hãng xây dựng Hàn Quốc và Nhật.
Ngày 3/8/2012, Babcock & Wilcox Co., công ty có trụ sở ở Charlotte, Virginia, thông báo rằng một công ty con đóng ở Bắc Kinh –Babcock & Wilcox Beijing Co. Ltd. – đã giành được hợp đồng trị giá 300 triệu Mỹ kim liên quan đến Thái Bình từ công ty Daelim Industrial Co. Ltd. của Hàn Quốc. Công ty Babcock & Wilcox nói rằng họ sẽ thực hiện công việc kỹ thuật ở Bắc Kinh cho hai lò nung chạy bằng than cho dự án Thái Bình, và cũng sẽ tham gia vào sản xuất.
Tuy một phát ngôn viên của Babcock & Wilcox không thể trả lời các câu hỏi về dự án Thái Bình trước khi bài báo này lên khuôn, dường như PetroVietnam và công ty Hàn Quốc muốn xin nguồn vốn tài trợ từ Eximbank để mua thiết bị do Mỹ sản xuất. Tài liệu công bố công khai không có chi tiết về số việc làm ở Mỹ mà nguồn tài trợ xuất khẩu này lẽ ra đã có thể hỗ trợ. (Cũng không rõ vai trò mà than có – hoặc có thể nên có – trong việc giải quyết các nhu cầu năng lượng của một nước đang phát triển như Việt Nam).
Sự liên can của PetroVietnam, đối với những ai hiểu cách vận hành của cái có thể gọi là “nền kinh tế chính trị” Việt Nam, cho thấy các hậu quả của câu chuyện này vượt ra ngoài khuôn khổ của một cuộc đấu tranh bình thường về đồng vốn và việc làm với chỉ một công trình xây dựng.
Các công ty quốc doanh kiểm soát có lẽ một phần ba nền kinh tế Việt Nam. Kém hiệu quả, bí mật và thường bị xem là có tham nhũng, các công ty quốc doanh cũng là chỗ kiếm tiền cho các đảng viên cộng sản cao cấp. Các công ty này trực thuộc văn phòng Thủ tướng, và vì vậy là một nguồn quan trọng để bổ nhiệm với mục đích ban phát bổng lộc và tạo ảnh hưởng chính trị. (Thử tưởng tượng Tổng thống Obama bổ nhiệm lãnh đạo cấp cao của một phần ba trong 500 công ty hàng đầu theo xếp hạng của Fortune, chẳng hạn như Boeing, General Electric, Microsoft, Google, Exxon, vân vân.)
Trong các cuộc đàm phán thương mại TPP, phía Mỹ đang yêu cầu Việt Nam tiến hành những cải cách về tính minh bạch, và thực hiện những biện pháp nhằm giúp các công ty quốc doanh có tính định hướng thị trường hơn. Như vậy là đòi hỏi quá nhiều, nếu xét đến thực tế là cũng chính các tập đoàn nhà nước đó lâu nay đã giúp nhiều cán bộ đảng cao cấp – bao gồm cấp Bộ Chính Trị – trở nên giàu sụ. Trong gần suốt mười năm qua, Bộ Chính Trị đã chật vật tìm cách xử lý vấn nạn này.
PetroVietnam lâu nay đã có nhiều điều tiếng ở Việt Nam. Hồi tháng 10 năm ngoái, một bài trên nhật báo Thanh Niên cho biết PetroVietnam đã bị chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh chỉ trích với lý do công ty này “cần công bố tài chính và số liệu lợi nhuận”.
Bài viết của báo Thanh Niên nói thêm rằng đại tập đoàn quốc doanh này đã phủ nhận những lời tố cáo công khai của các đại biểu quốc hội cho rằng tập đoàn lâu nay sử dụng tiền thuế của dân để đầu cơ bất động sản. Rồi tờ Thanh Niên đặt câu hỏi tại sao PV Power và các công ty con thuộc sở hữu 100% của PVN có công ty bất động sản của riêng mình. Tờ báo này thậm chí còn đăng ảnh chụp Nam Đàn Plaza ở Hà Nội, được mô tả là “một dự án trung tâm mua sắm cao cấp do PV Power đầu tư xây dựng”. (Theo quan điểm của giới quản lý công ty quốc doanh, đầu cơ bất động sản hẳn có lãi hơn điện lực, vì chính phủ buộc họ ấn định giá điện quá thấp cho người tiêu dùng Việt Nam nên không thể kinh doanh có lãi được.)
Tuần này, các quan chức Việt Nam cùng công cán với Chủ tịch Trương Tấn Sang sẽ ra sức thuyết phục các quan chức của Eximbank. Trong khi Chủ tịch Trương Tấn Sang và Obama hội đàm. Khó có khả năng họ sẽ thành công. Các quan chức Mỹ có thể thắc mắc liệu các quan chức PetroVietnam có dùng bất cứ khoản lãi nào thu được từ nguồn vốn vay lãi thấp của Mỹ để đầu cơ vào các thương vụ bất động sản mạo hiểm hơn hay không.
Một sự kết hợp tế nhị
Chính quyền Obama đã tăng sức ép về những cách hành xử nhân quyền của Việt Nam. Cái giá Việt Nam phải trả để gia nhập TPP, và để xây dựng mối quan hệ chiến lược thực thụ với Washington, sẽ được ràng buộc rõ ràng với tiến bộ “có thể chứng minh được” về nhân quyền, như Đại sứ Mỹ tại Việt Nam David Shear nói hôm 1/6 với Việt kiều Mỹ ở Orange County, California. Phát biểu của ngài đại sứ có bối cảnh không thể nhầm vào đâu được: “Kể từ khi đến nhậm chức ở Việt Nam vào tháng 8/2011, tôi vẫn nói với các quan chức cao cấp của Việt Nam rằng nếu người Việt muốn tham gia TPP, nếu họ muốn hợp tác mạnh hơn về ngoại giao trong khu vực dẫn đến một mối quan hệ đối tác chiến lược, thì chúng tôi cần thấy Việt Nam có tiến bộ có thể chứng minh được về nhân quyền”.
Xưa nay chủ trương chính thức của Mỹ thường không đưa ra một ràng buộc rõ rệt như vậy về nhân quyền trong bất cứ cuộc đàm phán thương mại nào. Phát biểu của đại sứ Shear – mà ông từ chối không bình luận thêm – ban đầu bị cho là không nghiêm túc theo nhận định của một số nhà quan sát thương mại dày dạn kinh nghiệm; họ khuyến cáo không nên hiểu lời phát biểu đó sát theo nghĩa đen. Theo cách lý giải này, đại sứ Shear lúc đó chỉ nói với thính giả California những điều họ muốn nghe. Việt kiều Mỹ và các hạ nghị sĩ đại diện cho họ ở Hạ viện Mỹ lâu nay đã chỉ trích đại sứ Shear, với lý do là ông chưa làm đủ để cải thiện những cách hành xử nhân quyền của Việt Nam.
Song, đại sứ Shear là một nhà ngoại giao Mỹ được đánh giá cao với nhiều kinh nghiệm ở Châu Á – ông từng làm việc ở Nhật, Trung Quốc, và Malaysia, nói được tiếng Nhật và Quan thoại. Đại sứ Shear cũng không mang tiếng là nói càn. Trong lần xuất hiện ở Orange County hôm 1/6, ngài đại sứ nói chậm rãi và thận trọng, tạo ấn tượng là ông đang nhắc lại những ý kiến có ủy quyền chính thức. Ngoài ra, việc đại sứ Shear nhắc đến tình trạng thiếu tiến bộ về nhân quyền là rào cản lớn nhất đối với các quan hệ chiến lược Mỹ-Việt mật thiết là hoàn toàn nhất quán với chính sách đối ngoại chính thức của Mỹ như các quan chức cao cấp Bộ Ngoại giao Mỹ thường bày tỏ. Quan điểm chính thức của Bộ Ngoại giao Mỹ là các quan hệ chiến lược Mỹ-Việt sẽ không cải thiện chừng nào chưa có “cải thiện có thể chứng minh được và lâu dài về tình hình nhân quyền”.
Đại diện Thương mại Mỹ Michael Froman đã từ chối đưa ra bất cứ lời đính chính ngoại giao nào để tách biệt chính sách thương mại của Mỹ với phát biểu của đại sứ Shear ở Orange County. Như vậy, có vẻ như Nhà Trắng an tâm với quan điểm cho rằng Đại sứ Shear nói sao thì Việt Nam nên hiểu đúng như vậy.
Xuất hiện cảnh sát thương mại Mỹ
Theo cách nhìn của Việt Nam, những đòi hỏi của Obama về nhân quyền trong các cuộc đàm phán TPP có vẻ như đầy xúc phạm.
Những nhà đàm phán thương mại của Obama lâu nay vẫn nhất quyết đòi hỏi trong TPP Việt Nam phải chấp nhận các yêu sách của giới vận động hành lang của các nghiệp đoàn Mỹ về việc Việt Nam cho phép tổ chức công đoàn độc lập – các quan chức Mỹ nhất quyết đòi hỏi điều này phải có khả năng thực thi. Dưới mắt người Mỹ, kết quả như vậy có thể được xem là tiến bộ về “nhân quyền”.
Trước khi chấp nhận ý tưởng này, Bộ Chính Trị có thể cân nhắc xem những dàn xếp tương tự đã có tác dụng ra sao cho những nước khác gần đây đã ký thỏa thuận thương mại với Mỹ.
Trong hiệp định thương mại song phương Mỹ-Colombia, quốc gia Mỹ Latinh đó đã buộc phải lập “kế hoạch hành động” về vấn đề lao động bao gồm các “cột mốc” có thể đánh giá được và một “hệ thống thực thi thiết thực”, với các quan chức Mỹ đóng vai trò người thực thi. Theo thực tế ở Washington, giới quan chức Mỹ rất chú ý đến giới hoạt động nghiệp đoàn AFL-CIO; giới này không bao giờ có vẻ hài lòng là người nước ngoài có đủ nỗ lực để đáp ứng các chuẩn mực của Mỹ.
Ngày 11/4/2013, Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ và Bộ Lao động khoe họ đã thúc ép được Guatemala đệ trình “một kế hoạch thực thi thiết thực để giải quyết những quan ngại” đã được Mỹ nêu ra trong một khiếu nại về lao động trong hiệp định thương mại ưu đãi có sự tham gia của Mỹ và quốc gia Mỹ Latinh này. Giới chức Mỹ tự chúc mừng mình vì đã buộc Guatemala đưa ra một kế hoạch 18 điểm để thỏa mãn các yêu sách của Washington. Kế hoạch này “bao gồm những hành động cụ thể với các khung thời gian cụ thể mà Guatemala sẽ thực hiện trong vòng sáu tháng để cải thiện việc thực thi luật lao động”.
Đây là trường hợp đầu tiên về vấn đề lao động mà Mỹ đưa vào trong một hiệp định thương mại ưu đãi của mình – nhưng người Việt có đủ lý do để nghi ngờ rằng cảnh sát lao động Mỹ có nhiều ý đồ dành cho họ.
Tiêu chuẩn kép của Mỹ
Giờ đến phần hết sức bẽ bàng cho Obama trong câu chuyện này. Lý do khiến Việt Nam thấy các cuộc đàm phán TPP có sức hấp dẫn là khả năng mở rộng thêm cánh cửa vào các thị thường quần áo và giày dép được bảo hộ của Mỹ – được bảo hộ bằng các mức thuế nhập khẩu cao ở mức 16-18%, nhưng với một số ngành hàng, gấp đôi mức đó. Những nhà đàm phán thương mại của chính quyền Obama lâu nay về cơ bản vẫn đòi hỏi rằng cái giá để cắt giảm bất cứ loại thuế nhập khẩu nào đối với giày dép hay quần áo là Việt Nam đồng ý mua vải từ các nhà cung cấp Mỹ.
Ý tưởng này chẳng có gì hấp dẫn với Hà Nội.
Thứ nhất, như tôi đã viết trong bài Những ưu đãi dành cho các thuộc địa trong một đế chế trên trang này vào ngày 11/9/2012, một trong những nguyên nhân khiến Napoleon đệ tam phái hải quân Pháp chiếm cảng Sài Gòn năm 1859 là để bắt buộc người Việt mở cửa thị trường cho hàng dệt may xuất khẩu của Pháp. Giới kinh tế học ngày nay hẳn sẽ đồng ý rằng áp lực hiện nay của Mỹ trong TPP chỉ là một phiên bản hiện đại chủ nghĩa thực dân Pháp.
Thứ hai, cái gọi là quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi” (“yarn forward”) không có tác dụng. Trong số các mặt hàng quần áo Mỹ nhập khẩu từ Mexico và các nước Mỹ Latinh khác đã bị các nhà đàm phán thương mại Mỹ bắt buộc chấp nhận các quy tắc rườm rà này, chỉ khoảng 17% thực sự được miễn thuế nhập khẩu. Các nhà nhập khẩu thích đóng thuế nhập khẩu, hơn là phải vượt qua nhiều chướng ngại vật hành chính, chịu gánh nặng thủ tục giấy tờ tốn kém, và trăm thứ khác.
Và cuối cùng, thử nghĩ đến cách Chủ tịch Trương Tấn Sang – bị Washington công kích vì chính phủ Việt Nam can thiệp nhiều vào nền kinh tế – có thể xoay chuyển tình thế với Obama. Ông Sang có thể hỏi: Có hợp lý hay không nếu chính phủ Mỹ gây áp lực buộc những tập đoàn lớn của Mỹ như các công ty tên tuổi Levi, Strauss & Co. và Gap, chấp nhận mua nguyên liệu vải denim (nặng) từ các nhà cung cấp Mỹ rồi vận chuyển xuyên qua Thái Bình Dương đến Việt Nam? Có hợp lý hay không nếu Nhà Trắng gây áp lực buộc Hanesbrands tuy có các nhà máy sản xuất đồ lót và chuỗi cung ứng ở các nước Châu Á lân cận như Thái Lan và Trung Quốc nhưng phải mua vải bông từ phần lục địa của Mỹ rồi vận chuyển số hàng đó xuyên đại dương? Còn Patagonia, công ty sản xuất áo khoác bằng lông ở Việt Nam từ nguyên liệu kỹ thuật cao của Nhật, thì sao? Tại sao chính phủ Mỹ lại muốn làm đảo lộn các cơ sở hoạt động toàn cầu của những tập đoàn tư nhân được tôn trọng khác: Nike, Adidas, Macy’s, Nordstrom, và rất nhiều công ty khác nữa?
Dĩ nhiên Obama sẽ phải vất vả nghĩ ra những câu trả lời đáng tin về mặt kinh tế cho những câu hỏi như vậy. Nhưng Nhà Trắng đã nhiều lần nhất quyết là Việt Nam phải ngậm bồ hòn chấp nhận các quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi” đối với hàng dệt may, và cả các mức thuế nhập khẩu cao đối với giày dép.
Từ góc nhìn của Việt Nam, chiến lược đàm phán TPP gợi nhớ đến cách Tổng thống Lyndon Johnson và Tổng thống Richard Nixon từng đặt các chính sách của Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam trên tiền đề là nếu siêu cường quốc giàu có này gây đủ áp lực, quốc gia Đông Nam Á nhỏ bé này rốt cuộc sẽ chiều theo ý muốn của Mỹ. Nhưng trừ phi Việt Nam có được thêm cơ hội có ý nghĩa để tiếp cận thị trường Mỹ mà họ đang theo đuổi trong TPP, khó mà nghĩ ra được lý do nào hợp lý khiến họ phải chịu quy phục.
Triển vọng cho các mối quan hệ Mỹ-Việt mật thiết hơn?
Những điều bất định cuối cùng chính là Việt Nam thực sự muốn gì từ các mối quan hệ với Mỹ.
Học giả Carlyle Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc lý giải “có một cuộc cờ tế nhị hiện đang diễn ra” trong Bộ Chính Trị. Đây chẳng phải là lần đầu tiên trong lịch sử lâu đời của mình mà Việt Nam đang cố gắng cân đối các mối quan hệ luôn luôn sóng gió của mình với Trung Quốc, nước láng giềng Đông Nam Á gần nhất, và đồng thời với Mỹ. Carlyle Thayer nhận định: “Một số người ở Hà Nội muốn quan hệ tốt đẹp hơn với Mỹ, trong khi một nhóm khác muốn phá hoại các quan hệ đó”.
Theo Thayer và những nhà quan sát nhiều kinh nghiệm về Việt Nam được phỏng vấn cho bài viết này, chính nhóm thứ hai [muốn phá hoại quan hệ với Mỹ] dường như đang có ưu thế. Điều đó có thể giúp giải thích tại sao Việt Nam đã bắt giữ hơn 40 blogger hòa nhã trong năm nay, nhiều tù chính trị hơn cả năm 2012 – có lẽ là một tín hiệu thù địch có chủ đích dành cho Bộ Ngoại giao Mỹ và Nhà Trắng.
Đương nhiên, với bất cứ vấn đề nào liên quan đến Việt Nam, có quá nhiều hàm ý tinh tế đến nỗi chẳng bao giờ có điều gì đúng hệt như thoạt tưởng. Chuyến đi thăm Trung Quốc ba ngày của Trương Tấn Sang bắt đầu vào ngày 19/6 có thể được lý giải là một dấu hiệu cho thấy các quan hệ Việt-Trung mật thiết hơn đã được cân nhắc. Ngay cả khi đúng là thái độ không khoan nhượng của Trung Quốc đã làm hỏng các cuộc gặp gỡ đó, Bắc Kinh có thể hồi phục (ví dụ bằng cách bớt hung hăng hơn trong việc tuyên bố chủ quyền các vùng trong Biển Đông mà rõ ràng thuộc Việt Nam).
Nhưng nên lý giải ra sao chuyến đi thăm Lầu Năm Góc của Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, hôm 20/6, trong khi Trương Tấn Sang đang ở Trung Quốc? Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ đã hội đàm với Đại tướng Martin Dempsey, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ. Theo nhận xét của một phát ngôn viên của tướng Dempsey, chuyến đi của tướng Tỵ là cuộc viếng thăm đầu tiên của một vị tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam đến Mỹ. Phái đoàn quân sự cao cấp của Việt Nam đáng chú ý còn có Trung tướng Phạm Ngọc Hùng, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo. Hẳn là có chuyện gì đây.
Kết luận tương đối rõ ràng duy nhất tại thời điểm này là Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực cân đối chính sách đối ngoại. Và do các vấn đề và những bất đồng chia rẽ Việt Nam, Trung Quốc, và Mỹ quá khó nên không thể giải quyết thật ổn thỏa, tình hình sẽ tiếp tục rối rắm hơn mong đợi.
——
(1) http://rushfordreport.com/?p=333