MỞ LẠI NGHI ÁN NĂM ẤT SỮU (1925) : LÝ THỤY (HCM) VÀ LÂM ÐỨC THỤ BÁN ÐỨNG CỤ PHAN BỘI CHÂU

Tới bây giờ, dù sự thật lịch sử VN đã gần như phơi bày toàn vẹn trước ánh sáng của nhân loại nhưng trong nước, hầu hết người dân kể cả người miền Bắc, vẫn không biết đích thực “Hồ Chí Minh” là ai ? vì từ lúc ra đời với cái tên Nguyễn Sinh Cung (Cuông), tới năm 1942 Hồ đã thay tên đổi họ tới 26 lần ( Nguyễn tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, Linov, PC Lin, Hồ Quang, Vương Quốc Tuấn, Sáu Sán, Hồ Chí Minh..)

Hồ Chí Minh suốt một kiếp người, từ khi xuất dương năm 1911 tới lúc nhắm mắt năm 1969, là một kẽ xảo ngôn, phô sắc, gian ác, hiểm độc, bán nước, phản dân tộc, xét về tư cách và hành động, đích thật là một tiểu nhân. Sau ngày 30-4-1975, bộ mặt thật của Hồ và Ðảng CSVN lần lượt rơi rớt vì đã hết cơ hội để “Bác” tạo thêm sự nghiệp cứu nước, khi đòi độc lập và thống nhất cho quốc gia dân tộc. Tất cả đã trở thành phường chèo trước mắt của đồng bào miền Nam, khiến cho không ai, kể cả đám văn nô quốc doanh, còn dám bẽ cong ngòi bút , để tuyên truyền dụ dổ những người nhẹ dạ nhắm mắt chạy theo Hồ và đảng Cộng Sản như thuở hồng hoang buổi trước.

Các thế hệ VN kể cả lớp người sinh sau cuộc chiến, đâu có ai quên được những cuộc thanh trừng đẳm máu của Hồ và phe cánh, đối với những người được gọi là đồng chí đồng đảng, để tranh giành quyền lực, trong thâm cung bí sử triều Hồ. Ai quên được sự sát hại người Quốc Gia của Hồ, trong Mặt Trận Việt Minh và những lần hòa hợp, hòa giải Quốc-Cộng, suốt chín năm kháng Pháp. Ai quên được Hồ ra lệnh tàn sát hằng triệu đồng bào vô tội ở miền Bắc, qua chiến dịch cải cách ruộng đất vào thập niên 50, mà trong số này có rất nhiều người đã từng xã thân chống Pháp , để dành độc lập cho dất nước và nửa mãnh sơn hà cho Hồ .

Ai quên được xương máu VN của cả hai miền Nam Bắc, khi Hồ bày trò ‘ Ðánh Mỹ-Ngụy cứu nước ‘.Thảm tuyệt nhất trong lịch sử Việt, cũng vẫn là những vụ tàn sát đồng bào vô tội vào Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, trên các đại lộ kinh hoàng Quảng Trị-Huế, Bình Ðịnh, Kon Tum-Pleiku và Bình Long-An Lộc năm 1972 và khắp VNCH vào những ngày tháng 4-1975. Ai quên được các cuộc tàn sát trả thù Quân Công Cán Cảnh VNCH của CS Hà Nội sau ngày 30-4-1975, các cuộc cướp giựt tài sản đồng bào Miền Nam VN qua những lần đổi tiền, đánh tư sản, xuất cảng người vươt biển, lao động, làm điếm.. để Hồ và Ðảng hoàn thành sự nghiệp cách mạng vô sản quốc tế, đưa đất nước lên Xã Hội Chủ Nghĩa mạt rệp, tàn tệ và bi thảm tận cùng như hiện nay mà bất cứ ai cũng thấy.

Lịch sử là sinh mệnh của dân tộc, nhờ nó mà người miền Bắc mới biết được sự tàn khốc của chế độ Cộng Sản, khi Hồ và Ðảng chiếm được nữa nước VN từ bên kia cầu Hiền Lương chạy lên tới biên giới Hoa-Việt qua Hiệp Ðinh Ngưng Bắn Genève năm 1954. Rồi ngày 30-4-1975 quân Bắc Việt vào Sài Gòn và từ ấy đến nay (2008) nhờ lịch sử, người Miền Nam mới biết rõ bộ mặt thật của Hồ và Ðảng là gì ?. Cho nên dù người Việt trong nước hôm nay vì bị bóp họng bịt miệng khóa tay nên đã không thể ghi được những câu chuyện thật của cận sử nhưng họ đã dồn hết gia thù quốc hận suốt bao chục năm qua, thành những vết hằn lịch sử vong quốc trên từng khuôn mặt, khóe môi, vừng trán, ánh mắt kể cả nụ cười của người dân đang sống dưới cùm gông nô lệ. Ðó mới chính là sự bảo lưu quá khứ để biến thành cái ‘ Thần ‘ của Việt Sử , một sự trái ngược hoàn toàn với những câu chuyện ‘ Sử Ngụy Tạo ‘ của bồi bút Ðảng dành tâng bốc và phong thánh cho lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Về cái được gọi là tài liệu của GS Hồ Tuấn Hùng ở Ðài Loan nói Hồ Chí Minh đã chết trong nhà tù Hồng Kông vào năm 1932 và chứng minh có một người Tàu gốc Hạ Phương tên Hồ Tập Chương thay thế Hồ tới khi y chết vào ngày 2-9-1969 tại Hà Nội. Thật ra câu chuyện cũng chẳng có gì mới mẽ vì đã được nhiều sử sách trong và ngoài nước đề cập tới nhiều lần qua các diễn đàn. vấn thế kỷ ?.

Trong tác phẩm tự phán (PBCNB), cụ Phan cho rằng mình đã bị Nguyễn thượng Huyền bán đứng cho Pháp vào ngày 1-7-1925, vì chỉ có y mới biết rõ lộ trình của ong mà thôi. Nhưng sự thật thì không phải vậy, năm 1928 lần đầu tiên Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân, trong tài liệu ‘ai bán đứng cụ Phan bội Châu?’ đã chỉ đích danh Lý Thụy (Hồ Chí Minh) đã bán Cu Phan cho Pháp. Năm 1948 Ðào trinh Nhất, trong loạt bài đăng trên báo Cải Tạo, cũng viết rằng, chính Lý Thụy là thủ phạm bán đứng cu Phan. Ngoài ra Bùi Ðình trong vụ án PBC và Bùi văn Hội (ba nhà chí sĩ ho Phan) đã chứng minh chính Lý Thụy và Lâm Ðức Thụ đã bán Cụ Phan cho Pháp.

 

1- PHAN BỘI CHÂU XUẤT DƯƠNG CỨU NƯỚC:

Là một nhà nho tiêu biểu cho giới sĩ phu yêu nước, Phan Bội Châu đã ném danh lợi phù phiếm vào trời đất mông mênh, để chọn cho mình một cuộc sống phi thường, dấn thân đấu tranh cho dân, cho nước, theo đúng truyền thống ngàn đời của thanh niên kẽ sĩ thời đại: ‘Nhân sinh tự cổ thùy vô tử? Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh’ .

Những sử gia chân chính xưa nay khi luận anh hùng, thường không chú trọng đến sự thành công vật chất, mà chỉ quan tâm đến các giá trị tinh thần. Bởi vậy trong dòng sông lịch sử Hồng Lạc, từ buổi bình minh dựng nước thời tổ Hùng Vương cho tới hôm nay, ta thấy ngoài những minh quân, hiền tướng như Lý thánh tông, Trần nhân Tông, Lê thánh Tông, Lý thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, Quang Trung đã tạo nên những chiến công hiển hách, lưu danh thiên cổ. Bên cạnh đó, còn có không biết bao nhiêu anh hùng liệt nữ, cũng đã hy sinh cho Tổ quốc dân tộc. Họ là Hai Bà Trưng, Bà Triệu, là Nguyễn Biểu, Ðặng Dung, Trương Ðịnh, Thủ khoa Huân, Phạm hồng Thái, Cô Giang, Nguyễn thái Học… là Phan Chu Trinh, PhanBội Châu và mới nhất có hàng triệu chiến sĩ VNCH trước này 30-4-1975 được nối tiếp bởi Trần văn Bá,Võ Ðại Tôn, Hoàng Cơ Minh, Lý Tống… tất cả không thành công nhưng thành nhân, danh thơm muôn thuở, khí phách hiên ngang, đáng được đời ngưỡng mộ. Trong hàng ngũ anh hùng liệt nữ trên, PhanBội Châu qua tâm khảm của nhiều người Việt Nam, là một chiến sĩ yêu nước tha thiết, nồng nàn, một nhân vật lịch sử kiệt xuất, gạch nối giữa hai phong trào Văn Thân và Duy Tân, cùng có chung một mục đích trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc vào đầu thế kỷ XX.

+ THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA PHAN BỘI CHÂU:

Từ sau những cái chết oanh liệt của các lãnh tụ chống Pháp như Cao Thắng, Phan Ðình Phùng, Ðinh công Tráng, Mai xuân Thưởng và nhất là việc Vua Hàm Nghi bị tên Trương quang Ngọc bắt giao cho Pháp và bị đày ải tận Phi Châu, thì phong trào Cần vương coi như đã thất bại dù trên rừng núi Yên Thế, Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân vẫn tiếp tục chống giặc thù, trong tình thế tuyệt vọng. Nhưng dân tộc Việt Nam muôn đời luôn có truyền thống bất khuất trước kẻ thù xâm lăng, nên lớp này vữa ngã xuống, lập tức đã có ngay thế hệ khác đứng dậy thay thế, để tiếp tục con đường tranh đấu dành độc lập cho quê hương.

Vì vậy từ đầu thế kỷ 20 khắp nước nở rộ lên một phong trào đấu tranh mới, cầm đầu bởi một tầng lớp sĩ phu nho giáo đầy nhiệt huyết và thức tỉnh trước chiến công hiển hách của Nhật Bổn đã đánh bại Thanh triều và Nga Sô. Trong bối cảnh đó, dù cùng chung lý tưởng là đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi Ðại Việt, nhưng trong phương cách hành động vẫn có nhiều khác biệt, như có người thì chuẩn bị võ trang tiếp tục đánh Pháp, trái lại có kẽ chủ trương tranh đấu công khai với kẻ thù bằng cách mở mang dân trí, chấn hưng công thương nghiệp, lập hội đòi dân chủ. Tóm lại, đó là chủ trương của hai nhóm kháng Pháp: cải cách và bạo động.

Trên thực tế, Phan Bội Châu là lãnh tụ cũa phong trào chống Pháp bằng phương cách bạo động nhưng đồng thời cũng ý thức được tác dụng hữu ích của phong trào cải cách, vì vậy ông đã sử dụng cả hai phương thức đấu tranh trên và được cả hai phái cũng như toàn dân quí trọng, tin tưởng. Ngoài ra Phan Bội Châu viết nhiều nhất và tác phẩm của ông đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến quốc dân lúc bấy giờ.

Tóm lại trong suốt một phần tư thế kỷ 20, Phan Bội Châu được xem như là một nhà ái quốc lớn nhất, một ngôi sao bắc đẩu dẫn lối cho dân tộc trên đường tháo gỡ ách nô lệ của ngoại bang. Trên văn đàn, thơ văn Phan Bội Châu tiêu biểu cho khuynh hướng yêu nước, phản ảnh trung thực cảnh quốc phá gia vong của một dân tộc, ý tưởng chẳng những mới mẻ mà văn phong càng hàm xúc, làm lôi cuốn mọi người, nhất là giới học sinh, thanh niên nam nữ. Sau này, nhiều người đã ví Ông với Văn Thiên Tường (1236-1282) đời mạt Tống, tể tướng cũng là một nhà thơ lỗi lạc của Trung Hoa, khi tìm hiểu tác giả qua bài chính khí ca:

thâm tâm nhất phiến từ châm thạch

bất chỉ nam phương, bất khẳng hưu

(lòng ta như mãnh nam châm, nếu không hướng về quê hương miền nam, về Tổ quốc thì ta vẫn chưa yên dạ)

tòng kim biệt khúc Giang Nam lộ

hóa tác đề quyên, đái huyết qui

(từ nay vĩnh bịệt Giang Nam nhưng ta sẽ hóa thành Ðổ quyên, kêu đến nhỏ máu để tự bay về chốn cũ)

sơn hà phá toại phong phiêu nhứ

thân thế phù trầm vũ đá bình.

(đất nước đang lúc nguy khốn, xơ xác như cánh hoa tơi tã, thân thế người dân trôi nổi dập dồn)

 

Cùng một cảnh ngộ chim lồng cá chậu như Văn Thiên Tường, từ năm 1926 Phan bội Châu bị Pháp giam lỏng tại Huế cho đến chết. Trước khi từ trần ngày 29-10-1940, Oạng đã viết mấy lời vĩnh quyết để tạ tội với quốc dân, trong có đoạn: “Bội Châu từ xưa tới nay, đối với đồng bào đã không chút gì là công, mà lại tội ác quá nặng. Bây giờ tôi chết, thật là một tên dân trốn nợ.. đồng bào có thứ lượng cho tôi thì tôi mới yên bụng” Hởi ơi, hai thế hệ cách nhau mấy trăm năm, nhưng họ đã hội ngộ trên con đường xả thân vì nước.

Theo các nguồn sử liệu, Phan bội Châu thuở nhỏ có tên là Phan văn San, hiệu là Hải Thụ. Khi đi thi mới đổi tên là Phan Bội Châu. Trong thời gian hoạt động chống Pháp, thường ký tên Sào Nam Tử hay Thị Hán. Sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 tại Ðan Nhiễm, Ðông Liệt, Nam Ðàn, Nghệ An, trong một gia đình hàn nho. Thuở nhỏ nhờ phụ mẫu vốn là nhà nho, nên ông được dạy dỗ chu đáo và đã thông thuộc một số bài trong kinh thi từ khi mới lên sáu nổi tiếng thần đồng, 13 tuổi trở thành đầu huyện, 16 tuổi là đầu xứ.

Ngày ngày chứng kiến quân Pháp lần lượt chiếm hết đất đai của VN từ nam ra bắc, đã nẩy nở trong ông tinh thần và tư tưởng yêu nước rất sớm, mà điển hình là bài hịch ‘bình tây thu bắc’ khi Pháp chiếm thành Hà Nội và các tỉnh khác ở Bắc Kỳ. Năm 1897, Oạng vào Huế và nhờ bài phú ‘bái thạch vi huynh’ nên Phan bội Châu đã kết giao được với các vị khoa bảng nơi đất thần kinh như Nguyễn thượng Hiền, Phan chu Trinh, Huỳnh thúc Kháng, Trần quý Cáp, Ngô đức Kế, Ðặng nguyên Cẩn và sau đó trở thành đồng chí trong suốt đoạn đường đấu tranh chống Pháp đầy hiểm nguy, gian khổ. Tại đây, ngoài việc được Tế tửu Quốc tử giám là Khiếu năng Tĩnh can thiệp để ông được phép trở lại trường thi và đậu giải nguyên tại trường thi xứ Nghệ, ông còn được đọc nhiều tân thư của các nhà cách mạng Trung Hoa, Nhật Bản, làm nẩy nở con đường cứu nước mới.

Sau khi thân phụ qua đời, Phan bội Châu quyết lòng vứt bỏ lợi danh phù phiếm, dấn thân vào con đường cứu nước mà khởi đầu là sự liên kết với Ngư Hải Ðặng thái Thân, sắp đặt ba kế hoạch lớn như liên kết với những sĩ phu trong phong trào Văn thân, Cần vương để tiếp tục mưu chuyện khởi nghĩa, tìm kiếm một minh chủ trong Hoàng tộc để liên kết các giới và chương trình đưa người xuất dương để học hỏi và xin ngoại viện. Tiến hành chủ đích trên, đầu tháng tư năm Giáp Thìn (1904), Phan bội Châu, Tiểu la Nguyễn Thành và một số lãnh tụ trong Duy Tân Hội tại Quãng Nam, đã đồng tâm, tôn xưng Kỳ ngoại Hầu Cường Ðể làm minh chủ. Phan bội Châu được giao phó trọng trách sang Nhật cầu viện, xin giúp đỡ phương tiện để chống Pháp.

Ðầu năm Ất Tỵ (1905), lần đầu tiên Phan Bội Châu đã cùng với Tăng Bạt Hổ, bí mật đáp tàu từ Hải Phòng đi Thượng Hải, sau đó tới Thần Hộ (Kobé) và Yokohama (Hoành Tân). Tại đây nhờ gặp được nhà cách mạng Trung Hoa Lương Khải Siêu đang lưu vong vì chống lại triều đình Mãn Thanh, mà Phan Bội Châu được quen biết với các lãnh tụ chính trị nổi tiếng thời đó của Nhật như Tử tước Khuyển dưỡng Nghị (Inukaiki) và bá tước Ðại Ôi Trọng Tín.Tất cả đều khuyên Phan Bội Châu nên đưa Kỳ ngọại Hầu và các thanh niên có nhiệt huyết ra ngoại quốc du học, để mưu tìm con đường cứu nước hữu hiệu. Từ đây, Phan bội Châu bắt đầu sử dụng ngòi bút để làm phương tiện đấu tranh với kẽ thù.

Những tác phẩm như VN vong quốcsử (1905), VN quốc sử khảo (1908), hải ngoại huyết thư, kính cáo toàn quốc phụ lão văn, thư gởi Phan chu Trinh vừa giới thiệu cách mạng VN với các chính khách Trung Hoa, Nhật Bản, vừa có tác dụng kêu gọi đồng bào trong nước nhất tề hưởng ứÔng công cuộc cứu nước và quan trọng hơn hết là cổ võ thanh niên xuất dương du học. Tất cả những công việc trên được mọi người hưởng ứng nồng nhiệt, phong trào Ðông Du nở rộ, nhiều thanh niên VN được theo học tại Châu võ học hiệu. Ðể giúp đỡ số du học sinh đông đảo trên, Phan bội Châu, Cường Ðể và các đồng chí lập Cống Hiến Hội, đặc trách việc du học của 200 thanh niên VN tại Nhật.

Trước sự lớn mạnh của phong trào Ðông Du, thực dân Pháp lo sợ nên dùng thủ đoạn nhượng một số quyền lợi kinh tế tại Ðông Dương cho Nhật, đổi lại nước này ra lệnh trục xuất hết người VN đang sống trên nước Nhật bắt đầu có hiệu lực ngày 10-7-1907. Trong nước tình hình chính trị biến động không ngừng, đầu năm 1908 nổi lên cuộc TrungKỳ dân biến, với các cuộc biểu tình của dân chúng Miền Trung, chống sưu cao thuế nặng, đồng thời là vụ các lính khố đỏ qua tiếp tay của Hoàng Hoa Thám, đầu độc các trại binh Pháp tại Hà Nội.

Cũng trong giai đoạn này, qua áp lực của Pháp, đầu tháng 8/1908 Nhật ra lệnh trục xuất hết du học sinh VN, làm một số trở về cố quốc nhưng phần lớn trốn sang Trung Hoa, cả Cường Ðể và Phan bội Châu cũng bị rời khỏi Nhật vào tháng 3/1909. Song song với bất hạnh trên, phong trào Duy Tân ở trong nước cũng bị đàn áp khốc liệt từ năm 1908-1910 nên gần như bị tan rã. Năm 1911, cách mạng Trung Hoa thành công, lật đổ được nhà Mãn Thanh, nhân cơ hội đó Phan bội Châu và các nhà cách mạng VN được Quốc dân Ðảng Trung Hoa giúp đỡ nên đầu năm 1912, Việt Nam Quang Phục được thành hình. Trong nước, Pháp giải tán các Hội kín ở Quảng Nam, trường Ðông Kinh nghĩa thục Hà Nội, bắt giam các lãnh tụ như Phan Chu Trinh, Huỳnh thúc Kháng, Nguyễn Thành, Ngô đức Kế, Lê văn Huân rồi đày ra Côn Ðảo. Riêng Ðặng thái Thân tự tử ngày 11-3-1910 trước khi bắn hạ một tên mật thám Pháp.

Ðể tạo tiếng vang trong và ngoài nước, năm 1913 VN Quang Phục Hội, quyết định lên án tử hình toàn quyền Ðông Dương Albert Sarraut cùng với hai tên Việt gian là Tổng đốc Hoàng trọng Phu (con Hoàng cao Khải) và Tổng đốc Thái Bình Nguyễn Duy Hàn. Kết quả, chỉ có Nguyễn duy Hàn và hai sĩ quan Pháp bị chết. Ðể trả thù, Pháp xử bắn và tù đầy hàng trăm người, đồng thời lên án tử hình khiếm diện Cường Ðể, Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần. Riêng toàn quyền Sarraut dùng tiền bạc và yêu cầu tổng đốc Lưỡng Quãng là Long tế Quang bắt giam Phan Bội Châu ngày 19-1-1914 tới tháng 2-1917 mới được thả khi Quang bị bãi quyền.

Cũng kể từ đó ông bôn ba kháp nơi để mưu tìm con đường cứu nước kể cả việc liên lạc với Ðại sứ Liên Bang Sô Viết tại Bắc Kinh năm 1920. Trưa ngày 1-7-1925 nhằm ngày 11-5 năm Ất Sửu, Phan Bội Châu vừa từ Hàng Châu đến Thượng Hải, thì bị mật thám Pháp bắt cóc và giải về Hà Nội. Trong Tự Phán, Phan Bội Châu cho rằng chính thư ký riêng của ông là Nguyễn thượng Huyền (cháu Nguyễn thượng Hiền) bán tin cho Pháp, nhưng sau này có nhiều tài liệu lịch sử chứng nhận, kẽ bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu để lấy tiền thưởng là Lâm đức Thụ và Lý Thụy (bí danh của Hồ chí Minh lúc đó). Trong nước, Pháp muốn thủ tiêu ông nhưng mưu toan bị bại lộ nên đành phải đưa Phan bội Châu ra hội đồng đề hình Hà Nội xét xử với bản án khổ sai chung thân, lưu đày biệt xứ. Tuy nhiên vì sự phản đối quá quyết liệt của quốc dân VN cũng như áp lực từ nước Pháp, nên toàn quyền Ðông Dương dành giảm án nhưng bắt ông giam lỏng tại bến Ngự, Huế từ năm 1926 cho tới lúc mãn phần năm 1940.

Là thủ lãnh của phong trào Ðông Du, nhóm chủ trương dùng bạo động để xoay chuyển lại thời cơ, chống giặc cứu nước. Phan Bội Châu từ thời niên thiếu, đã chứng kiến được cảnh quốc phá gia vong, nỗi đau thương cùng cực của người Việt Nam mang ách nô lệ bạo tàn, vì vậy trong tâm khảm của nhà ái quốc đã nẩy nở những hoài bão lớn lao của kẻ làm trai, tung hoành ngang dọc, không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh và số mệnh:

‘Khác thường bay nhảy mới là trai,

Chẳng chịu vần xoay mặc ý trời.’

Ðể hoàn thành chí lớn trên, kẻ nam nhi phải hành động sao cho xứng đáng là anh hùng, trượng phu, quân tử. Ðây cũng là sự khác biệt so với phần đông những người lớp trước, thường quan niệm ‘thời thế tạo anh hùng, thời thế thế thời, thời phải thế’, Phan Bội Châu trái lại cho rằng ‘chính anh hùng tạo nên thời thế’: ‘nắm dân quyền lỗi lạc giữa phương đông tạo thời mới gọi anh hùng.’

Ðây cũng là mộy ý tưởng mới lạ, thanh thoát và tích cực. Thật vậy, ngày xưa kẻ sĩ luôn tin ở thiên mệnh, nên họ luôn tùy thời mà hành động, Phan tiên Sinh trái lại cực lực phản đối hành động tiêu cực ấy, khi cho rằng kẻ làm trai phải biết gánh vác trách nhiệm, tại sao lại phải dựa vào sự định đoạt của hóa công? Theo ông, ví dù thời chưa đến nhưng người anh hùng cũng có thể tự xoay chuyển thời thế, ấy là nhân lực trước thiên mệnh. Trên con đường đấu tranh, xưa nay từ đông sang tây, có ai mà không gặp phải một đôi lần thất bại trước khi mã đáo thành công, bước lên đỉnh đài vinh quang tuyệt diệu hay nhắm mắt xuôi tay ôm hận muôn đời? Bởi vậy không nên đem thành bại để luận anh hùng, mà chỉ cần xét tới ý chí và hành động của họ mà thôi.’

‘nếu không thất bại, sao có thành công

xưa nay anh hùng từng thua mới được’

Tri hành hợp nhất, đó là kim chỉ nam của người anh hùng và Phan bội Châu, trong suốt cuộc đời đã luôn luôn giữ đúng, nước mất thì phải đòi lại nước, tự do bị hủy diệt thì phải làm sao lấy lại tự do, dân chúng lầm than khổ cực thì phải làm sao cải thiện đời sống của họ. Tóm lại, quan niệm đấu tranh của Phan Bội Châu là tận dụng tất cả phương tiện từ bạo lực tới ôn hòa, từ quân sự cho tới tuyên truyền bằng văn thơ thi phú, phải tạo thời cơ, vượt qua những chướng ngại hiểm nguy, để phụng sự cho quốc gia, dân tộc:

‘đường đường đội đá vá trời,

anh hùng há nhượng cho người thế gian’

 

2 – NGHI ÁN  VỀ VIỆC PHAN BỘI CHÂU BỊ AI BÁN ÐỨNG CHO PHÁP ?

Trong tác phẩm tự phán (PBCNB), cụ Phan cho rằng mình đã bị Nguyễn thượng Huyền bán đứng cho Pháp vào ngày 1-7-1925, vì chỉ có y mới biết rõ lộ trình của ông mà thôi. Nhưng năm 1928 lần đầu tiên Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân, trong tài liệu ‘ai bán đứng cụ Phan bội Châu?’ đã chỉ đích danh Lý Thụy (Hồ Chí Minh) đã bán Cụ Phan cho Pháp. Năm 1948 Ðào trinh Nhất, trong loạt bài đăng trên báo Cải Tạo, cũng viết rằng, chính Lý Thụy là thủ phạm bán đứng cụ Phan. Ngoài ra Bùi Ðình trong vụ án PBC và Bùi văn Hội (ba nhà chí sĩ họ Phan) đã chứng minh chính Lý Thụy và Lâm Ðức Thụ đã bán Cụ Phan cho Pháp.

Mới đây vào năm 1972, Sử gia kiêm học giả Ðài Loan là Tưởng Vĩnh Kính, qua tác phẩm ‘Hồ chí Minh tại Trung quốc’ cũng xác nhận chính Lâm đức Thụ (đại diện của Phan bội Châu tại Hương Cảng) và Nguyễn Ái Quốc (Lý Thụy-Hồ chí Minh), đã bán cụ Phan cho Pháp, rồi cả hai chia đôi số tiền thưởng là 100.000 quan bây giờ. Sau đó, Thụ và Quốc còn hợp tác nhiều năm nữa để bán những đồng chí của cụ Phan trong Tâm Tâm Xã và VN Quang Phục Hội cho thực dân Pháp.

Theo các học giả trong cũng như ngoài nước, thì việc Phan bội Châu bị bán đứng, một phần do số tiền thưởng cao, nhưng trọng điểm chính là chính trị, nên Lý Thụy, một cán bộ đệ tam cọng sản quốc tế từ Liên Xô mới tới Trung Hoa, đã ra tay nhanh chóng loại trừ Cụ Phan, một lãnh tụ Quốc Gia uy tín nhất lúc bấy giờ trong cuộc chống Pháp tại hải ngoại, hầu đoạt vị trí lãnh đạo cũng như tổ chức, bổ sung cho lực lượng cọng sản mới phôi thai tại VN. Còn một sự kiện quan trọng khác, do chính Cụ Phan viết trong tự phán, đó là việc ông đã tiếp xúc với hai nhân viên cao cấp của Liên Xô tại Tòa đại sứ nước này ở Bắc Kinh là Grigorij và Voitinsky, nhờ giúp đỡ đưa du học sinh VN sang du học tại LX. Cuối cùng mọi sự không thành vì Phan Bội Châu không chấp nhận điều kiện theo cọng sản. Và cũng do việc này mà ông đã phải gánh lấy hậu quả với Liên Xô, là xài không được thì phải gạt bỏ không để cho kẻ khác xài, và Lý Thụy được giao trọng trách thi hành bản án trên. Ở đây, thực dân Pháp và cộng sản quốc tế đã gặp nhau trong cùng mục đích triệt hạ Phan Bội Châu.

Sau năm 1954, Nguyễn thượng Huyền trở lại VN và di cư vào nam, đã viết bài minh oan cho mình trên tờ Bách khoa số 73, xuất bản tại Sài Gòn năm 1960.

Ngày 23/11/1925, Hôi đồng đề hình của Pháp tại Hà Nội xử Phan Bội Châu khổ sai chung thân tại Côn Ðảo, nhưng vì phản ứng quyết liệt của quốc dân, nên ngày 25/12/1925 toàn quyền Varenne phải ký lệnh ân xá và giam lỏng ông tại Bến Ngự, Huế. Nhờ số tiền 2000 đồng của đồng bào cả nước quyên góp, Huỳnh thúc Kháng và Võ liêm Sơn, đã mua hai khoảnh đất tại dốc Bến Ngự ( cách Huế 3 km về phía nam) và gần đàn Nam Giao để cất nhà và làm nghĩa trang sau này cho Phan Bội Châu.

Ngày 29-10-1940, Cụ Phan qua đời. Nhờ số tiền 900 đồng do quốc dân quyên góp, Huỳnh thúc Kháng đã làm nhà thờ và xây mộ cho cụ Phan tại địa điểm mà sinh thời, Sào Nam đã chọn cho mình vào năm 1934. Ngoài ra còn có mộ của vợ chồng thứ nam ông là Phan Nghi Ðệ và mộ nhà cách mạng Tăng Bạt Hổ trong phong trào Ðông Du, mất năm 1907, được Chính quyền VNCH cải táng từ Hương Trà về đây năm 1969.

Cũng vì việc cụ Phan nhân đạo đã cho chôn thêm nhiều cán bộ CS khác như Trần Hoành, Bùi thị Nữ, Lê tự Nhiên, Thanh Hải, Ðạm Phương, Hải Triều.. trong nghĩa trang riêng của mình, đã tạo cớ cho các sử gia cọng sản như Trần huy Liệu, Chương Thâu.. vin vào đó mà biện bạch về vụ án Lý Thụy và Lâm Ðức Thụ bán đứng Phan Bội Châu.

Tóm lại, những ngày đầu của thế kỷ 20, Việt Nam coi như đã mất hẳn chủ quyền về tay thực dân Pháp. Triều đình nhà Nguyễn tại Huế chỉ còn là hư vị, trong khi đó phong trào Cần vương cũng sắp tàn lụn, báo hiệu sự bế tắc trên con đường cứu quốc. Phan bội Châu hiện ra như một ngôi sao bắc đẩu, qua ảnh hình tiêu biểu của một lãnh tụ của phong trào cách mạng mới, ngoảnh mặt phá bỏ tất cả những ràng buộc của thời phong kiến lỗi thời. Ông hiên ngang đi trên chông gai, tắm trong bảo tố, bôn ba khắp chốn để mưu tìm con đường giải phóng dân tộc. Như hàng bao thế hệ trước, Phan Bội Châu hào hoa phong nhã, gươm đàn nữa gánh, giang sơn lẫy lừng.

‘non sông đã chết, sống thêm nhục

hiền thánh còn đâu, học cũng hoài ‘

Chúng ta những đứa con thân yêu sinh trưởng trên vùng biển mặn Trung phần, may mắn trên con đường lập chí, đã được nép mình suốt bao năm dưới mái trường trung học mang tên Phan Bội Châu tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Nhờ khí thiêng của ông nên trải qua hơn nửa thế kỷ thành lập, đã có không biết bao nhiêu anh hùng nam nữ theo gót tiền nhân, làm rạng danh con Hồng Cháu Lạc. Thời kỳ cải cách ruộng đất trên đất Bắc, cũng may ông đã chết, nên chỉ bị VC bắt phạt bằng cách đem hình trên bàn thờ, treo xuống chuồng trâu, trong lúc đó người cháu nội đích tôn của nhà ái quốc là Phan Thiện Cơ, đang mang cấp bậc Ðại Tá trong Bộ Ðội Hà Nội.

Cọng Sản VN hiện nay đang điên cuồng đàn áp Phật Giáo, Tin Lành, Thiên Chúa Giáo và chà đạp nhân quyền, bất chấp công pháp quốc tế, dư luận trong và ngoài nước. Ðể vừa ăn cướp lại la làng, Hà Nội tổ chức rùm beng lể kỷ niêm 100 năm(1905-2005), đánh dấu ngày cụ Phan Bôi Châu, phát động phong trào Ðông Du cứu nước. Hành đông này tuy mới nhìn vào, làm ai cũng tưởng là Bắc Bộ Phủ đã ăn năn hối hận về sự lừa dối, phản bội các Ðảng phái Quốc Gia, khi chúng Hòa Hợp, Hòa Giải. Nhưng thấy vậy mà không phải vậy, vì mục đích chính ngày kỷ niệm trên, để VC có lý do chính đáng, làm sống lại huyền thoại Nguyễn Tất Thành xuất dương cứu nước, mà đồng bào VN, kể cả các đảng viên, gần như đã quên lãng, khi tất cả sự thật về Hồ Chí Minh và Ðãng VC Ðệ Tam Quốc Tế, đã bị lột trần muôn mặt trước bia miệng và lịch sử, khi công khai bán nước cho Trung Cộng, tham nhũng tàn bạo, đưa quốc dân vào vũng bùn ô nhục, nghèo đói hiện nay, không biết bao giờ mới thoát được cảnh địa ngục xã nghĩa thiên đàng .

Nhưng trước đống núi tài liệu lịch sử càng lúc càng được khai quật, chắc chắn phải có một ngày Hồ Chí Minh phải dở nắp hòm đứng dậy để tự thú về hành động chính mình và Lâm Ðức Thụ đã bán đứng Phan Bội Châu cho Pháp năm 1925 để cướp quyền và nhận tiền thưởng.

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di

Mường Giang

Sáng Lập Đảng

Nguyễn Thái Học người Sáng Lập Việt Nam Quốc Dân Đảng

Tìm Bài Theo Tháng

Tự Điển Hỏi Ngã Tiếng Việt