Hồi ký “Cuộc Đời Tôi” của cựu đại tá quân lực VNCH-Hoàng Tích Thông (28)
Hồi ký “Cuộc Đời Tôi” – Tập I (1945-1950)/ Chương 3: Từ tháng 02-1948 đến 02-1950. TRÊN ĐƯỜNG SỐNG LƯU VONG TẠI TRUNG HOA (28)
Trên đương sống lưu vong tại Trung Hoa (28)
Được sự chỉ dẫn của người nhà ông Đức Hiện, chúng tôi tìm tới nhà ông Liên Khai không mấy khó khăn. May mắm được gặp ông ở nhà. Ông là một người đứng tuổi, trông bề ngoài có vẻ hiền hậu. Ông đã đón tiếp chúng tôi thân mật trong tình đồng chí anh em, tỏ ra rất ái ngại về cách ăn mặc cũng như thể chất của chúng tôi. Qua cuộc trình bày tự sự, thì tôi thấy ông ta tỏ ra sốt sắng lo lắng cho chúng tôi. Việc đầu tiên của ông là giúp cho mỗi người một cái áo sơ mi và một quần tây, tuy không còn mới, nhưng trông cũng được.
Tôi nghĩ như vậy là tốt lắm rồi. Sau đó, ông đưa chúng tôi ra một cửa hiệu cắt tóc của một đảng viên VNQDĐ làm chủ để hớt đi những bộ tóc dài rừng rú chẳng còn thích hợp nữa. Ở đây, chúng tôi quen biết với hai anh Bách Việt và Thanh Hải. Hai anh sang trước chúng tôi một năm, khi Mặt trận rời khỏi Lào Kay. Hai anh thuộc vào loại cắt tóc có hạng. Hỏi ra thì các anh cho biết việc học cắt tóc cũng không có gì khó khăn, sáng trí và khéo tay thì chỉ một hai tháng là hớt được, miễn là người chỉ dạy thật lòng hay không. Vì vậy, ý nghĩ trở thành thợ hớt tóc đã đeo đuổi tôi từ đó.
Sau này ở lâu bên Trung Hoa, có nghề cắt tóc trong tay, tôi mới thấy là rất thuận lợi cho công cuộc hoạt động cách mạng và sinh sống khá thoải mái, không gò bó, muốn đi đâu cũng được… miễn là có bộ đồ nghề mang theo bên mình là được. Trong thời gian chờ đợi tìm công ăn việc làm, ông Liên Khai sắp xếp cho chúng tôi tạm trú ở một vài nhà đồng chí có điều kiện.
Các Cụ Đỉnh, ông Liên Khai, anh Sơn và nhiều người khác tuy rất có lòng giúp đỡ, nhưng cuộc sống gia đình cũng không lấy gì làm sung túc cho lắm, thành thử chúng tôi chỉ mong sớm có công việc gì để làm hầu tránh phiền hà cho họ phải lo. Sự mong đợi cũng không phải chờ lâu.
Vài hôm sau, ông Liên Khai tới chỗ ở cho chúng tôi hay là một sở bông tư chịu mướn. Chế độ ăn uống và tiền lương sẽ giải quyết khi tới đó. Sở làm được biết cũng không xa lắm, mất khoảng một tiếng đồng hồ đi bộ. Khi đó không hiểu tại sao, chúng tôi chẳng ai chịu hỏi rõ công việc ra sao, mà chấp nhận ngay không thắc mắc. Tôi nghĩ rằng ông ta đã có công tìm việc cho mình mà từ chối cũng kỳ, không lẽ cứ ăn nhờ người ta mãi dù là đồng chí anh em. Còn ông Liên Khai cũng nghĩ rằng, chúng tôi đã dạn dày gian khổ thì việc gì mà chẳng làm được. Khi bằng lòng nhận làm việc, tôi đã mường tượng ngay là cái sở bông của chúng tôi sẽ là một cái xưởng rộng lớn, có máy móc chạy rầm rập suốt ngày, sản xuất chỉ sợi và nệm bông, và chúng tôi sẽ là những công nhân giúp việc trong nhà máy đó. Kể ra thì cũng tốt thôi, trong khi trong túi không có lấy một đồng xu, nghề không biết, tiếng không thông. Chúng tôi hăng hái chuẩn bị đi vào ngày hôm sau.
Sáng sớm vào lúc sáu giờ, một anh do ông Liên Khai chỉ định lại đón chúng tôi cùng đi tới sở làm. Hơn một tiếng đi bộ qua những ngọn đồi lúp súp, không một bóng cây, chúng tôi tới một khu trang trại khá rộng và ngay ở lối vào có một căn nhà gạch lớn quét vôi màu trắng. Anh bạn dẫn đường cho tôi biết là đã tới nơi. Nhìn qua, nhìn lại tôi chỉ thấy độc nhất có căn nhà đó, ngoài ra chỉ là đồng ruộng trống không, chứ chẳng có nhà máy nào cả như tôi nghĩ.
Lúc đó tôi mới vỡ lẽ ra là chúng tôi làm công việc cuốc đất trồng cây bông gòn. Thế là vỡ mộng, nhưng đã nhận thì không thể thoái lui được. Chúng tôi được ông đốc công tiếp đón và cho chúng tôi biết rõ công việc và lương bổng. Việc làm duy nhất lúc đầu là cuốc vỡ đất và trồng bông, sau mới đi tỉa cành và hái bông vào mùa thu hoạch. Thời gian làm việc ngày 10 tiếng. Sáng thức dậy lúc sáu giờ, ăn cháo đường hoặc cơm nếp, 7 giờ bắt đầu làm việc tới 12 giờ trưa. Nghỉ trưa một giờ rưỡi, ăn cơm trưa gồm ba món, một đĩa xào, một đĩa thịt hoặc đậu kho mặn và cuối cùng là món canh, thường là canh hẹ nấu với đậu phụ. Có ngày chúng tôi thưởng thức món canh lông vịt (một thứ hoa màu trắng). Số lượng ẩm thực dư dã, về chất lượng cũng tạm được. Buổi chiều từ 1:30 chiều giờ rưỡi đến 6 giờ tối. Bẩy giờ ăn cơm chiều, các món ăn đổi qua loa, chín giờ tối đi ngủ. Chủ nhật nghỉ trọn ngày.
Lương bổng trả cho mỗi người là năm ký đường (đường bát), ai làm việc tốt có thể lãnh hơn tùy theo đốc công chấm điểm. Theo thời giá lúc bấy giờ, vì đồng tiền mất giá, lên xuống hàng ngày, nên ít người làm việc lấy tiền giấy. Nhưng sợ mất công ra chợ bán đường, thì có thể lấy tiền theo giá ngày hôm đó. Sau khi mọi chuyện được thỏa thuận, ông đốc công dành cho chúng tôi một căn buồng có đủ phương tiện ăn nằm. Ngoài ra, ông còn chỉ cho chúng tôi một cái kho để dụng cụ và chỉ dẫn đại khái khu vực làm việc ngày hôm sau. Đặc biệt là ông nhắc nhở về kỷ luật làm việc đúng thời gian ấn định, có năng xuất, nếu không sẽ cho nghỉ việc. Ngày đầu ông cho chúng tôi nghỉ không tính lương. Trước công việc ấn định, tôi cảm thấy là không dễ ăn, nhưng cũng phải cố gắng xem sao. Sở bông, tôi thấy người làm việc vắng ngoe, xa xa một vài người đang cuốc đất. Công nhân ở đó làm hết việc họ về nhà, chỉ có chúng tôi là người xa lạ, không nhà, không cửa mới tá túc luôn ở trại.
Ông Đốc công hàng ngày hết giờ, ông ta cũng về Khai Viễn, chỉ có người giúp việc trông coi là ở luôn đó và lo cơm nước cho chúng tôi. Hôm sau, ngày khởi sự làm việc, sau khi mỗi người làm hai tô cháo, chúng tôi vào kho lấy cuốc để ra đồng làm việc. Tôi phải mất mươi phút mới chọn được một cái cuốc tương đối nhẹ hơn trong tổng số mấy chục chiếc. Đúng giờ, ông Đốc công đã chờ sẵn, rồi dẫn chúng tôi ra khu đất ấn định. Công việc thì cũng chẳng có gì đặc biệt, miễn là cuốc cho thật sâu rồi cùng lúc đập vỡ ra thành cục nhỏ.
Lý thuyết là như vậy, nhưng thực tế thì khác nhiều, nhất là đối với chúng tôi từ lúc bé tới lúc lớn chỉ có cầm bút chứ có biết cái cuốc là gì đâu. Tuy nhiên trời buổi sáng còn mát mẻ, sức khỏe còn nguyên vẹn nên cuốc hăng lắm, nhưng tựu chung cũng chỉ cuốc ba cái là phải ngừng tay vì cái cuốc nặng quá, tay bắt đầu rát. Trong khi đó thì ông Đốc công ngồi thường trực trên bờ đất coi chúng tôi làm việc, thành thử chúng tôi phải rán sức không dám nghỉ nhiều. Cứ một tiếng, ông thổi còi nghỉ mười phút tại chỗ, uống nước giải khát, những lúc đó, chúng tôi cứ đùa giỡn với nhau là “lục vạn”. Ai đánh bài tổ tôm hay đánh chắn cạ thì biết rõ con bài lục vạn là hình anh chàng cầm cuốc đứng thế nghỉ.
Mấy ngày đầu, chúng tôi làm việc còn đỡ, nhưng vào cuối tuần thì chúng tôi anh nào anh nấy cũng mỏi nhừ, rời rã chân tay, sáng không muốn thức dậy nữa. Ăn uống tuy đầy đủ, nhưng nhiều lúc quá mỏi mệt nên nuốt không trôi. Chúng tôi nghĩ là sẽ phải bỏ cuộc, không cáng đáng nổi công việc quá nặng nhọc. Làm việc không được tự do, bị đốc công kềm kẹp cả ngày nên khó mà nuốt trôi năm ký đường của ông ta quá. Do đó đến ngày cuối tuần, chúng tôi đồng ý xin đốc công nghỉ việc, ông ta không có gì phản đối, có lẽ ông ta thấy rõ năng xuất của chúng tôi rồi… Tuy vậy, ông vẫn tính đủ ngày trả tiền công cho chúng tôi. Sau ngày nghỉ việc, chúng tôi tự tính lo công việc.
Anh Việt (Lục Quân Yên Báy) từ giã chúng tôi lên Côn Minh vì nghe tin ở trên đó có nhiều anh em Lục Quân ở. Còn lại là ba anh em chúng tôi là anh Hồng, Bảo và tôi. Khi trở lại Khai Viễn, chúng tôi có lại thăm Cụ Đỉnh, anh Sơn và trình bày tự sự ở sở bông. Các anh ở Đảng Bộ Khai Viễn lại đề nghị chúng tôi tới sở bông quân đội ở gần ga Séo Lồng Thán (cách Khai Viễn về hướng Bắc mấy ga xép), một Thị trấn nhỏ. Dĩ nhiên là chúng tôi cũng nhận đi ngay, vì không thể nhờ vả anh em mãi được. Lúc đó chúng tôi có ít tiền công vừa trả nên có thể chịu đựng được ít ngày.
Từ Khai Viễn tới Séo Lồng Thán (Ma Cai) bằng tàu hỏa và chúng tôi không ai phải mua vé cả, vì có Cụ Đỉnh soát vé và anh Sơn lái tàu. Suốt thời gian sinh sống ở Vân Nam từ Côn Minh, Khai Viễn xuôi ngược, chúng tôi đi tàu hỏa gần như miễn phí, với điều kiện khi có sự hiện diện của các đảng viên VNQDĐ phục vụ trong ngành hỏa xa, ở chuyến tàu mình đáp. Tới Séo Lồng Thán, chúng tôi xuống ga và được người đại diện của Đảng bộ hướng dẫn vào khu sở bông của quân đội cách xa đó khoảng vài cây số. Đó là một nông trường rộng lớn, bao gồm các dãy đồi thoai thoải gần một dãy núi cao. Nông trường do quân đội phụ trách nên tổ chức có phần quy mô hơn. Qua cổng gác là những dãy nhà gạch chạy dài dùng cho binh lính ngủ.
Chúng tôi được sĩ quan đón tiếp và dẫn về trú ngụ tại một căn nhà nhỏ cho công nhân dân sự làm việc. Sau khi cho biết chế độ làm việc, ăn uống và nghỉ ngơi. Mọi việc cũng không khác gì mấy ở sở bông tư. Riêng ăn uống thì kém hơn. Để dễ bề kiểm xoát, chúng tôi cũng được cấp phát cho quần áo nhà binh màu vàng nhạt và giày hải sảo bện bằng sợi, một mũ lưỡi trai cũng màu vàng. Ăn vận vào, chúng tôi cũng chẳng khác gì anh lính “Tàu phù” khi sang VN giải giới quân đội Nhật. Chế độ ăn uống thì cũng ngày ba bữa. Lương lậu mỗi tháng chỉ có hai mươi ký đường.
Chúng tôi đành phải chấp nhận vì lúc đó chưa biết phải tính làm ăn như thế nào. Điều may mắn là trong những ngày đầu làm việc không như ở sở bông tư. Chúng tôi được sĩ quan chỉ định đi cắt tỉa cành cây và hái bông. Vào buổi sáng lúc trời còn tối, có khi ánh trăng còn sáng tỏ, kẻng đánh thức của trại đã vang lên từng hồi. Làm vệ sinh cá nhân, ăn sáng phải nhanh chóng mới kịp giờ đi làm việc. Ra khỏi trại thường là ánh sáng vẫn còn mờ mờ.
Buổi tối thì chín giờ phải tắt đèn đi ngủ hết, nghĩa là chúng tôi sống chế độ hoàn toàn nhà binh. Trong những ngày đầu thì rất khó chịu, nhưng rồi dần dần cũng quen đi. Khi đó chúng tôi thường nói giỡn với nhau là đi ngủ ngay đi không kẻng nó đánh vào tai bây giờ. Không ngờ chuyện cái kẻng lại lập lại với tôi suốt 13 năm trong trại tù cải tạo CS mà sau ngày 30/4/1975, chúng tôi mệnh danh nó là hồi kẻng oan nghiệt. Khi ra khỏi trại tù “cải tạo”, về đến thành phố Sài Gòn vẫn không thoát tiếng kẻng ghê rợn của CS địa phương, vào mỗi buổi sáng sớm vang lên từng hồi đánh thức, thúc dục dân chúng đi làm việc.
Công việc cắt tỉa cành bông cũng nhẹ nhàng thôi, không mất nhiều sức lực như cuốc đất nên không mệt lắm. Mỗi chúng tôi được cấp phát một lưỡi liềm khá sắc, chỉ giựt nhẹ là đứt ngay. Ngày không cắt tỉa thì đeo gù hái bông. Làm việc ở sở bông quân đội không bị kiểm xoát chặt chẽ lắm, nên thì giờ nghỉ ngơi tùy tiện, miễn là đừng có bê bối quá. Ở sở bông tư, do tư nhân làm chủ, trả lương cao hơn nên bắt buộc họ phải đòi hỏi nhiều năng xuất hơn. Đó cũng là điều hợp lý thôi. Hơn một tháng làm việc gọi là nhẹ nhàng về thể xác, nhưng về mặt tình cảm, tinh thần thì không mấy thoải mái. Hàng ngày mỗi khi ra trại, vào trại, báo thức, báo ngủ, báo ăn đều phải tập họp điểm danh rất là phiền toái. Họ cứ coi chúng tôi như những tên lính của họ vậy. Đôi khi không bằng lòng một chuyện gì lại còn sỉ vả nữa. Tập họp bắt đứng hàng giờ, nhiều lúc chúng tôi bực mình dùng tiếng Việt chửi đổng cho bõ ghét. Tuy nhiên, nếu không có một sự việc xẩy ra thì có lẽ chúng tôi cũng còn ở đó một thời gian lâu hơn nữa.
Sự việc là nguyên một hôm, cũng trong một cuộc tập họp thường lệ, sĩ quan phụ trách trại, sau khi sỉ vả chán các binh sĩ dưới quyền và các công nhân địa phương, hắn lại quay qua đả kích chúng tôi là lười không chịu làm việc hết mình theo thói người VN, anh Bảo đã phản đối lại. Tên sĩ quan bị mất mặt trước hàng quân liền sửng cồ tiến lại đánh anh Bảo. Chúng tôi sợ chuyện vỡ to không lợi, nên khuyên can anh Bảo bình tĩnh tính chuyện sau. Số đông trong hàng cũng tỏ ra bất bình về thái độ của tên sĩ quan lỗ mãng đó.
Ngay sau sự việc xẩy ra, chúng tôi bảo nhau không đi làm nữa và quyết định lên gặp tên sĩ quan chỉ huy trình bày tự sự và xin thôi việc. Ông Trại trưởng nghe xong câu chuyện, cũng như đã được trình báo, ông ta tỏ ra thông cảm và yêu cầu chúng tôi tiếp tục công việc, nhưng chúng tôi nhất định từ chối vì một phần đã quá chán với cái chế độ sinh hoạt hàng ngày của trại. Chúng tôi có tin là các công nhân làm việc cho trại đến cuối tháng ít khi được trả lương ngay, mà có khi tới hai, ba tháng mới thanh toán. Khi chúng tôi xin thôi việc, thì đã làm việc được hơn một tháng và vì thế trại buộc lòng phải trả tiền lương cho chúng tôi. Tính ra mỗi người hơn hai mươi ký đường, tính theo tiền mặt với thời gian lúc đó thì chúng tôi có thể ăn được chừng nữa tháng.
Ngay trưa hôm đó, sau khi lãnh tiền song, chúng tôi mang trả hết quần áo, chăn mền mùng lại cho trại và lên đường ra ga Séo Lồng Thán. Tới nơi thì chúng tôi gặp ngay mấy anh Long (Lê Văn Long), Bái, Hưng (Lê Hưng), Ngọc, Chấp. Các anh không huấn luyện trong trường Lục Quân Yên Bái mà hoạt động bên Đảng Bộ VNQDĐ. Cùng một hoàn cảnh, cùng một lứa tuổi, cùng đảng chúng tôi phút chốc trở nên thân thiết. Các anh vừa đẩy song một chuyến xe than ra bờ sông gần đó, chỉ cách khu nhà ga một, hai trăm thước. Các anh cho chúng tôi biết rõ về việc làm của các anh và hoan nghênh chúng tôi tới làm việc cho thêm vui, nhưng cũng không quên nhắc nhở là công việc rất mệt nhọ không kém gì ở sở bông tư, chỉ có một thuận lợi là làm nhiều ăn nhiều, làm ít ăn ít, tùy mình không ai bắt buộc.
Chúng tôi đồng ý và một anh trong nhóm giới thiệu chúng tôi với ông Cảnh sát trưởng. Ông này vừa làm việc riêng và công, vì ông có cổ phần trong việc khai thác mỏ than. Ông ấy vui lòng giúp đỡ, cung cấp cho chúng tôi nhà ở và một chiếc xe đò để chở than. Ngoài ra ông ta còn sẵn sàng cho chúng tôi vay tiền để tiêu dùng, nhưng các anh đã khuyên can chúng tôi đừng mượn, sau này sẽ bị kẹt không thôi việc được, vì không có tiền để trả. Căn buồng chúng tôi ở ngay cạnh nhà các anh. Giờ giấc tùy theo chúng tôi lựa chọn miễn là thuận lợi cho công việc. Thường thì buổi sáng dậy rất sớm, trời mát nên năng xuất nhiều hơn. Còn buổi chưa nóng nực thì nghỉ nhiều hơn. Sau đó chúng tôi làm việc tới lúc mặt trời lặn.
Quãng đường từ mỏ than ra tới địa điểm đổ hàng ở kế cận bờ sông chỉ dài khoảng vài ba cây số, nhưng đường đồi lên xuống, không trải đá, trải nhựa, thỉnh thoảng lại bị hố sâu, nên vận chuyển rất khó khăn. Đối với dân địa phương, họ có trâu bò để kéo nên khỏe hơn, còn chúng tôi lấy sức người thay vật. Một chuyến xe trở đầy than, từng cục lớn, phải cần đến bốn, năm người. Một người cầm càng xe, một phụ và ba người đẩy phía sau hay giữ bánh khi xe sa xuống hố hoặc ghì lại khi đổ dốc. Bình thường mỗi ngày làm được sáu chuyến thì đủ ăn, còn làm hơn thì ăn uống đầy đủ và dư ra ít tiền phòng khi ốm đau hoặc trời mưa gió không đi làm được. Mỏ than Séo Lồng Thán là mỏ than nổi không nằm sâu dưới lòng đất, nên khai thác dễ dàng, và có ít tai nạn lao động xẩy ra. Lớp đất phủ lên mỏ than không dầy quá hai ba thước. Trước hết họ xử dụng xe ủi đất hoặc sức người để đào xới. Nhưng tôi thấy phần lớn là họ xử dụng nước từ một nguồn nước ở xa theo một con đường đào dẫn đến khu vực có mỏ than, rồi dựa theo giòng nước chảy họ cuốc đất nên kết quả rất mau chóng. Và chỉ trong một thời gian ngắn là cả một “Balcon” than lộ ra. Tới lúc đó thì các công nhân chuyên nghiệp dùng búa đập với các con chốt bằng thép, đánh ra từng tảng than lớn, bằng cả tấm chiếu, rồi đẽo ra từng phiến nhỏ. Với công việc mới, dù rằng làm cật lực đến bữa ăn, chúng tôi cũng chỉ có nhiều lắm là hai món, một món đậu kho mặn (người địa phương gọi là đậu sị). Anh Ngọc được mệnh danh là “Ngọc đậu sị” vì anh khoái món ăn đó, và món canh hẹ cà chua và ít đậu phụ. Thịt cá, họa hoằng lắm mới có. Chỉ có thế thôi, nên chúng tôi ai cũng mặt mày bơ phờ, còm cõi.
Làm đâu được một tháng, còn các anh bạn thì lâu hơn. Cảm thấy không thể tiếp tục “sự nghiệp” làm than, nên chúng tôi cùng bàn định thôi việc và phân tán mỏng. Lúc đó chúng tôi quan niệm sống và làm việc tập thể, có các điều thuận lợi là tương trợ giúp đỡ lẫn nhau về vật chất cũng như về tinh thần khi đau ốm cũng như khi không có việc làm trong hoàn cảnh lưu vong xứ người. Nhưng trong thực tế thì lại không thuận lợi vì với số người đông thì lại khó có công việc tương tự như ở sở bông, mỏ than, làm quần quật cả ngày mà không đủ ăn vì bị bóc lột sức lao động quá mức. Hơn nữa các công việc đó cũng không phù hợp với khả năng và sức lực nữa. Do đó chỉ còn có phương cách là phân ra từng nhóm nhỏ, hai ba người thì dễ sinh sống và cũng không bị cảnh đơn độc, cô đơn.
Nhóm anh Long, Lê Hưng đi lên mạn trên ở Nghi Lương và Côn Minh. Còn ba anh em chúng tôi, vẫn anh Hồng, Bảo và tôi, qua bên kia sông, tới khu vực xã Ma Cái cách đó hai cây số. Chúng tôi tiếp tục làm ở mỏ than, do có người giới thiệu, vì công việc dễ dàng hơn. Trong khi chờ đợi một công việc thích hợp hơn, chúng tôi đành phải chấp nhận vậy.
Tới mỏ than, cũng tương tự khai thác như ở mỏ than Séo Lồng Thán, chúng tôi gặp ông Đốc công. Qua sự trình bày của anh Hồng, ông ta vui vẻ nhận ngay và giúp cho chúng tôi một căn nhà nhỏ, mái lợp rạ, tường xây đất. Nhà không có đồ đạc gì cả, chúng tôi rải rơm ra sàn đất làm chỗ ngủ. Cửa ra vào cũng để trống cho thoáng, có lẽ họ nghĩ công nhân nghèo, vô gia cư mới ở đó, có còn gì để mà sợ mất mát. Công việc làm tự do, cũng như trước kia ở mỏ than bên kia sông, chỉ có khác là chúng tôi không xử dụng xe bò mà tải bằng người. Mỗi người có thể đeo hai cục than trên lưng. Mỗi cục nặng khoảng 15, 20 ký, gọt đẽo vuông vắn. Khi đèo trên lưng thì phải mang một cái nệm rơm để tránh than cạ vào lưng, một cục để thẳng, cục trên để ngang tránh cho khỏi rơi. Mỗi khi di chuyển, lưng phải khom xuống, và mỗi khi muốn nghỉ thì phải dựa lưng vào bờ đất cao, nếu rơi xuống thì một mình khó để lên lại, thành thử nghỉ chân cũng phải mang luôn.
Từ mỏ than ra tới bờ sông cũng mất hai cây số, đường sá dễ đi. Muốn đủ ăn hàng ngày thì phải đi năm chuyến, mỗi chuyến hai cục thì mới đủ ăn. Còn muốn kiếm nhiều hơn thì phải đi nhiều lần. Ba anh em chúng tôi sức khỏe ngang nhau, nên chỉ có thể làm được tối đa là sáu chuyến. Thời gian làm ở đó đã thuộc vào thời tiết tháng tư, tháng năm nên khí hậu rất nóng bức. Mồ hôi vã ra như tắm mà vẫn cố gắng chịu đựng, nếu không thì không đủ năm chuyến theo chỉ tiêu ấn định để đủ ăn. Thức ăn uống thì không khác gì hơn là canh cà chua hẹ, đậu phụ kho, những món ăn thông dụng rẻ tiền. Để tranh thủ thời gian và cũng không phải nghỉ để lo nấu nướng, nên mỗi khi đến giờ ăn cơm, chúng tôi chỉ cần bỏ gạo vào một cái hũ sành rồi để cạnh bên đống than đang cháy, nấu canh cũng vậy. Khi đèo than ra tới bờ sông trở về, chúng tôi chỉ việc lấy ra ăn ngon lành. Vì đã tính toán nhiều lần nên không bao giờ bị cháy cả. Đôi lúc, ông Đốc công thấy chúng tôi ăn uống kham khổ, có thức ăn gì ngon, ông lại mang cho chúng tôi. Ông này thuộc loại người tốt, được lòng công nhân, nên mọi việc khá trôi chảy, nên ít khi tôi thấy ông chủ xuất hiện. Làm được một thời gian, vì làm ban ngày quá nóng, ảnh hưởng đến sức khỏe, chúng tôi xoay ra làm vào buổi tối. Những hôm có trăng sao, khí hậu mát mẻ, chúng tôi làm tới khuya mới nghỉ.
Trên đường vắng lặng chỉ còn lại mấy tên “A nàn dần” (người Việt Nam) đang khom lưng mang những hòn than nặng, như những bóng ma thất thểu dưới ánh trăng mờ ảo. Cứ như vậy, công việc tiếp diễn đều đều cho đến một ngày, trong khi đang ăn cơm chiều, thì ông Đốc công tới thăm và cho biết là chúng tôi nếu bằng lòng thì ông giới thiệu với ông chủ lên làm ở trên trại. Dĩ nhiên là chúng tôi đồng ý. Có lẽ ông thấy chúng tôi cực khổ quá, vả lại là người nước ngoài, có ăn học, vì trong các mẩu chuyện hàng ngày, nên ông ta càng hiểu chúng tôi nhiều hơn. Hôm sau, ông dẫn chúng tôi lên thăm và giới thiệu với ông chủ và đề nghị cho làm việc ở trong trại. Chắc ông Chủ đã được ông Đốc công trình bày trước, nên ông ta vui vẻ chấp nhận ngay.
Thế là bắt đầu hôm sau, chúng tôi làm công việc nông trại, từ giã nghề làm than lắm cơ cực. Ông Chủ là người có học, chạc tuổi ngoài năm mươi, chững chạc, ăn nói nhỏ nhẹ, không kiểu cách, kiêu căng. Ông biết nói vài tiếng Việt, vì ông cho biết có vài lần qua Lào Kay buôn bán. Ngược lại, chúng tôi cũng trình bày rõ về hoàn cảnh và lai lịch của chúng tôi để ông rõ, và vì thế mà cách cư xử với chúng tôi khác hẳn với những công nhân khác làm việc cho trại. Ông thường gọi chúng tôi là Lão Doan, Lão Woàng (Hoàng).
Công việc hàng ngày của chúng tôi là gánh phân ngựa, phân trâu bò từ chuồng ra ngoài đồng, ủ thành đống rồi mang đi bón vào cây thuốc lá, thuốc lào. Trồng mía, thu hoạch mía, đưa vào lò làm đường. Những ngày ở mỏ than cần khai thác, chúng tôi được điều động tới tăng cường bằng cuốc đất cho rơi xuống đường mương nước, tương tự như ở mỏ than Séo Lồng Thán, nghĩa là khai thác lộ thiên. Việc làm, nói chung khỏe hơn trước. Khi nào mệt thì nghỉ, không có ai kiểm soát, miễn là mọi việc giao phó hoàn thành tốt. Chỉ có vào chuồng trâu, ngựa lấy phân là hơi cực vì mùi sú uế xông lên mặt mũi, nhất là vào lúc thời tiết nóng bức.
Về ăn uống thì cũng ngày ba bữa, nhưng khá hơn nhiều so với sở bông. Đặc biệt là các thức ăn do bà chủ tự tay nấu nướng. Khi ăn, cơm nước được dọn lên nhà trên, còn gia đình ông chủ lại ăn ở nhà bếp. Ông Đốc công cùng ăn với chúng tôi. Quả là hi hữu, tôi chưa bao giờ thấy cảnh đó trong chế độ gia đình người Trung Hoa cũng như VN. Chính vì lẽ đó mà công nhân làm việc ở trại cũng như ở mỏ than đã tỏ ra rất kính trọng đối với ông chủ của họ.
Suốt thời gian làm việc ở đó, cũng như sau đó ra hành nghề cắt tóc ở ngoài chợ, tôi chưa bao giờ thấy có sự xáo trộn giữa công nhân và ông chủ. Về lương bổng, mỗi anh em chúng tôi được ba mươi ký đường mỗi tháng. Mọi việc diễn tiến tốt đẹp, trong bầu không khí hiểu biết và thông cảm. Làm được ít lâu, thì có hai anh Tuấn Khanh (sau này là con rể ông Lê Khang) và Hùng (QGTNĐ) tới tìm địa điểm mở cửa hàng cắt tóc. Tại gần chỗ trại chúng tôi làm, có một cái chợ tên là Ma Cái, cứ năm hôm thì có một phiên chợ chính, còn ngày thường thì buôn bán ở xa tới bày hàng.
Các nhà ở hai bên phố chợ, phần lớn dùng căn nhà phía trước làm cửa hàng bán đủ mọi thứ. Trong thời gian ở trại, một hôm ra chợ mua bán, tình cờ chúng tôi gặp một người đàn bà VN làm ăn ở đó. Hai bên nói chuyện, thổ lộ tâm tình rất là thân mật. Dù rằng mới gặp nhau lần đầu, bà ta đã mời chúng tôi về nhà chơi.
Trong câu chuyện, hỏi ra thì Bà lại là người cùng làng với tôi. Gần gũi hơn nữa, Bà ta lại học trên tôi hai lớp khi còn theo học tại trường Tiểu học ở làng. Bà ta có chồng là một sĩ quan cấp Thiếu Úy làm việc ở Khai Viễn, cuối tuần mới về thăm nhà. Ông ta tên là Cổ Páng Lù, phục vụ trong quân đội Lư Hán. Do đó anh đã qua VN khi quân đội Trung Hoa sang VN giải giới quân đội Nhật. Khi làm việc ở Hà Nội, hai người đã quen nhau, rồi đi tới hôn nhân. Lúc quân đội Lư Hán hoàn thành nhiệm vụ rút trở về thì Bà ta cũng theo chồng về nước. Bà ta đã có hai con nhỏ, một gái và một trai còn đang bế. Để cho việc liên hệ được dễ dàng, thoải mái, không mang đều nọ, tiếng kia, nên bà ta đã giới thiệu với gia đình cha mẹ chồng rằng tôi là em họ. Nhờ đó, mà gia đình đã tiếp đón chúng tôi như người thân trong nhà kể cả anh chồng bà ta, một thanh niên khá bảnh trai, có học, nói được năm ba tiếng Việt, nên chỉ gặp nhau một lần là đã thân thiết. Khi rời trại lên sống ở Côn Minh, cho đến ngày trở về VN, tôi không bao giờ gặp lại ông bà ta nữa.
Cho tới năm 1989, khi về thăm quê nhà ở Hà Nội, hỏi han về bà ta thì được biết sau khi Trung Cộng chiếm Vân Nam thì hai vợ chồng chạy sang VN và sinh sống bằng nghề thầy thuốc bắc. Ở đâu VN trên mười năm thì ông ta trở ra Hương Cảng và mắc bệnh chết tại đó. Bà vợ thì sống ở Hà Nội, không rõ nơi nào, nên tôi không tới thăm được. Do sự quen biết đó, nên chúng tôi nhờ bà tìm thuê giúp một căn phố để mở cửa tiệm cắt tóc.
Việc thuê tìm không mấy khó khăn, nhờ có bảo lãnh của gia đình bà ta. Căn phố thuộc một gia đình trong họ chồng bà, nằm ngay ở cuối chợ. Thuê được căn nhà quả là may mắn, nếu không có bà, thì khó mà thuê được, vì là người xa lạ. Căn nhà bằng gỗ, mái nhà lợp lá, gồm hai phòng. Phía trước dùng làm cửa hiệu có thể bày được hai ghế, còn ở trong dùng làm phòng ngủ và chứa đồ đạc. Giá cả không đắt lắm, vì khi đó không thấy ai quan tâm đến vấn đề tiền nhà cả.
Có được căn nhà rồi, thì hai anh vội về Khai Viễn mang bàn ghế và mọi thứ cho nghề nghiệp hớt tóc. Hai anh Tuấn Khanh và Hùng đã thành nghề sau bốn, năm tháng học hỏi ở một tiệm cắt tóc thân quen ở Khai Viễn. Với cửa hiệu này, hai anh sẽ là người đầu tiên của nhóm Séo Lồng Thán thực hiện kế hoạch để cưu mang lẫn nhau, bằng cách huấn luyện thêm một người cho đến khi thành thạo. Sau đó cung cấp cho anh em một bộ đồ nghề để đi chỗ khác làm ăn. Nếu có khả năng thì mở tiệm, tiếp tục giúp anh em khác học nghề. Do đó mà một hai năm sau suốt từ Mông Tự lên tới Côn Minh, chỗ nào cũng có anh em tốt nghiệp ở lò hớt tóc Séo Lồng Thán mở cửa hàng cắt tóc. Cùng lắm, thì căng lều ở phố chợ, tự lực làm ăn, chứ không chịu làm công.
Từ khi có cửa hiệu, chúng tôi không nghỉ ở trại nữa. Buổi chiều, sau bữa ăn, là chúng tôi trở về cửa hiệu nghỉ ngơi, và không quên lãnh một hai ký dường bồi dưỡng vì trại có lò đường. Số đường này, tối về chúng tôi nấu chè, cùng nhau thưởng thức, chung vui. Cuộc sống có phần thoải mái, dễ thở hơn trước nhiều.
Cửa hàng mở được ít lâu, thì có các anh Long, Ngọc, Hạ ở trên Côn Minh xuống thăm và tính việc làm mành trúc bán cho các nhà buôn ở Côn Minh. Số người đông, cửa hiệu không đủ cung cấp, nên anh Hạ vào trại làm với chúng tôi. Như vậy, ngoài công việc cắt tóc, chúng tôi còn làm thêm mành trúc, vì ngày không phải phiên chợ thì ít khách hớt tóc.
Từ đó, chúng tôi tất cả có tám người. Với căn nhà nhỏ thì quá chật, nhưng ban ngày thì ở trong trại một nửa. Còn về đêm, thì chúng tôi chỉ dẹp bàn ghế vào một góc, rồi trải chiếu xuống đất là xong.
Nói chung, công việc làm ăn tiến triển tốt, không có gì xẩy ra cả. Ít tháng sau, anh Hạ đang làm với chúng tôi thì có giấy báo từ Côn Minh kêu đi học lớp quân sự tại Thành Đô (Thủ phủ của Tứ xuyên). Số người được Đảng Bộ VNQDĐ Hải ngoại cử đi học có khoảng mấy chục người. Trong nhóm làm than của chúng tôi có thêm anh Lê Hưng. Anh em thuộc QGTNĐ không có ai được tham dự cả.
Sau khi tốt nghiệp thì được mang cấp Thiếu úy và với chức vụ Trung dội Trưởng, nhưng phần lớn đã từ chối phục vụ trong quân đội Trung Hoa. được biết hầu như gần hết các anh đó đi về Quảng Tây, ở đó ông Vũ hồng Khanh đang hoạt động. Đến cuối năm 1949, Quảng Tây rơi vào tay Trung Cộng, các anh em đó đi theo ông Vũ cùng với một số đơn vị Trung Hoa Quốc Dân Đảng chạy về VN ở trong khu vực của quân đội Pháp chiếm đóng. Riêng anh Lê Hưng và anh Hạ trở về Côn Minh. Anh Hạ có xuống thăm chúng tôi ở Séo Lồng Thán và có vào trại thăm ông Chủ. Lúc đó, anh Hạ vận quân phục và mang lon Thiếu Úy. Các công nhân trong trại đều tỏ ra rất ngạc nhiên, vì trước kia chúng tôi chỉ là công nhân bình thường. Riêng ông Chủ và Đốc công biết rõ lai lịch chúng tôi. Hai ông ân cần hỏi chuyện anh Hạ và tiếp đãi rất nồng hậu.
Vấn đề làm mành trúc, lúc đầu có khách hàng, sau có lẽ vì ế ẩm không đặt hàng nữa, thành thử hai anh Long, Ngọc lại trở lên Côn Minh. Còn cửa hiệu cắt tóc, ở lâu quen khách hàng, được tín nhiệm, nên thâu nhập cũng khá. Do đó, anh em dự tính để anh Hồng học nghề ở cửa hiệu. Anh Bảo về Khai Viễn, tôi trở lên Côn Minh nghiên cứu tình hình và tìm gặp anh Lê Đình Việt (Cơ trưởng QGTNĐ) cùng tìm cách liên lạc về gia đình. Trường hợp thất bại, sẽ trở lại Séo Lồng Thán (Ma Cai), chổ tiệm cắt tóc.