Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) – Bài 1: Giai đoạn trước 1954

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường sinh năm 1909 tại phố Hàng Đào, Hà Nội, và mất ngày 13 tháng 07, 1997 tại Hà Nội, Ông theo học tại trường Albert Sarraut và đỗ tú tài năm 16 tuổi. Năm 1927 ông du học tại Pháp. Sáu 6 sau, 1933 lúc mới 22 tuổi ông trở thành người Việt đầu tiên đỗ hai bằng tiến sĩ tại Pháp: Ưu Hạng Luật Khoa và Tiến Sĩ  Văn Chương (cả hai luận án tiến sĩ đều viết năm 1932). Thời ấy, báo giới Pháp xem người thanh niên Việt Nam trong một năm đỗ 2 bằng tiến sĩ là hiện tượng chưa từng có trong nền giáo dục đại học Pháp. Ông về Việt Nam bị CSVN lợi dụng thành phần trí thức như thế nào? Xin những ai tự nhận mình là “trí thức” nên đọc hai bài sau đây về cuộc phỏng vấn Luật Sư Nguyễn mạnh Tường trước khi về “hợp tác” với Cộng Sản Việt Nam – dưới đây là bài 1.

Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) – Bài 1: Giai đoạn trước 1954

Thy Khuê

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường và bìa quyển "Un excommunié (Kẻ bị khai trừ)" xuất bản tại Paris năm 1992

“Tôi không h tham gia Mt trn Vit Minh. Bao gi tôi cũng là mt người yêu nước, luôn luôn ưu tư đến vic giành li đc lp cho đt nước. Tuy nhiên tôi t xác đnh cho mình mt v trí là làm mt người trí thc. Mà người trí thc, mun đc lp, thì không nên tham chính. Người trí thc phi đng v phía dân ch không đng v phía chính quyn“. Nguyễn Mạnh Tường.

Ngày 30/10/1956, Nguyễn Mạnh Tường diễn thuyết 6 tiếng trước Mặt Trận Tổ Quốc tại Hà Nội (3 giờ buổi sáng, 3 giờ buổi chiều) về những sai lầm trong cải cách ruộng đất. Trường Chinh, Xuân Thủy và Dương Bạch Mai yêu cầu ông viết lại nội dung cuộc nói chuyện ứng khẩu thành văn bản. Ông viết lại với tựa đề: “Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo”, đánh máy làm hai bản, trao cho Trường Chinh và Xuân Thủy, chỉ giữ lại bản nháp viết tay.

Bài chính luận sâu sắc, chủ đích phân tích những sai lầm của chế độ, từ cải cách ruộng đất ở thôn quê, sang cải tạo tư sản, quản lý mậu dịch ở thị thành, chỉ ra nguồn cội của sai lầm: vì chế độ chính trị không dân chủ. Và trình bày phương pháp sửa chữa: thực hiện những nguyên tắc của một nhà nước pháp quyền, trong một chế độ dân chủ.

Bài tham luận được gửi sang Rangoon (thủ đô Miến Điện) rồi đến Pháp (theo Hoàng Văn Chí). Vậy Trường Chinh và Xuân Thuỷ, ai là người chuyển văn bản của Nguyễn Mạnh Tường ra ngoại quốc, và để làm gì? Để cho quốc tế biết tình hình miền Bắc Việt Nam hay để buộc tội tác giả ?

Nguyễn Mạnh Tường bị kiểm điểm rồi bị đuổi khỏi đại học, sống trong hơn 30 năm sa mạc. 40 năm sau, ông viết tiểu thuyết Une voix dans la nuit (Tiếng vọng trong đêm) về ba chính sách nòng cốt trong thời kỳ xây dựng chế độ Cộng sản ở miền Bắc: Cải cách ruộng đất, Cải tạo tư sản, và Thanh lọc trí thức. Ông gửi bản thảo sang Paris. Đây là một trong 7 tác phẩm được hoàn tất trong giai đoạn cuối đời, tất cả viết bằng tiếng Pháp, về hơn 60 năm ông sống dưới chế độ cộng sản. Ngoại trừ cuốn Un excommunié (Kẻ bị khai trừ), được Quê Mẹ in năm 1992 tại Paris, các tác phẩm khác, chưa in.

Tại Paris trong bốn tháng (4/1989-1/1990), ông trả lời nhiều cuộc phỏng vấn, được ghi âm, viết lại, in trên báo, và riêng chúng tôi cũng có dịp gặp ông, nhờ đó, nhiều vấn đề được sáng tỏ hơn.

Ngày 27/7/2003, bác sĩ nha khoa Nguyễn Văn Lung (1916-2009) (em ruột bà Hoàng Xuân Hãn) người tích cực hoạt động cho tổ chức Francophonie (Khối Pháp ngữ) gửi đến chúng tôi một tập tài liệu quan trọng về giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, với lời ghi: “Tôi xin gửi tới chị một số tài liệu về anh Tường để chị sẽ làm hương hồn anh trở lại với chúng ta”. Và ông Lung đề nghị cùng chúng tôi làm một chương trình về luật sư Nguyễn Mạnh Tường trên đài RFI, dưới dạng phỏng vấn, bởi ông biết rõ con người và đã được đọc nhiều tác phẩm chưa in của Nguyễn Mạnh Tường.

Đang chuẩn bị, thì ông được thư của bà Nguyễn Mạnh Tường ngỏ ý lo ngại, ông đành phải hoãn cuộc phỏng vấn, đợi khi nào thuận tiện hơn. Tuy nhiên ông căn dặn chúng tôi có toàn quyền sử dụng tập tài liệu này trong khuôn khổ văn hoá. Cũng xin nói thêm, Nguyễn Văn Lung và Joël Fouilloux, là hai người có giấy ủy quyền của Nguyễn Mạnh Tường về việc in các tác phẩm của ông ở ngoại quốc. Chúng tôi đang chờ đợi một dịp thuận tiện để công bố những tư liệu này, thì ông Nguyễn Văn Lung đột ngột qua đời tại Paris ngày 8/10/2009.

Trong tập tài liệu này, ngoài hình ảnh, thư từ viết bằng tiếng Pháp, trao đổi giữa Nguyễn Mạnh Tường và Nguyễn Văn Lung cùng một số người Pháp, về vấn đề Francophonie, về việc in sách của luật sư tại Pháp, còn có bản chụp hai cuốn Contruction de l’orient- Apprentissage de la Méditerranée (Xây dựng Đông phương- Kinh nghiệm Địa Trung Hải) và Le voyage et le sentiment (Du hành và cảm xúc), kịch. Ngoài ra, có một bản đánh máy, kê khai gần đủ các tác phẩm của Nguyễn Mạnh Tường, phần lớn chưa in, và nhất là bản thảo (đánh máy) cuốn Une voix dans la nuit (Tiếng vọng trong đêm) do Nguyễn Mạnh Tường sửa lỗi.

Qua những tư liệu này, chúng tôi thử dựng lại chân dung Nguyễn Mạnh Tường, chủ yếu, dẫn trích từ các tác phẩm và từ lời nói của ông trong các buổi gặp gỡ, trả lời phỏng vấn Phạm Trần, Hoà Khánh, ở Paris, và giáo sư Nguyễn Văn Hoàn, học trò ông ở Hà Nội.

Phần thứ hai, chúng tôi sẽ giới thiệu tác phẩm Une voix dans la nuit, cho tới nay, là cuốn sách duy nhất do một trí thức tự do viết về những bi kịch đau thương còn khép kín. Như tất cả các tác phẩm khác của Nguyễn Mạnh Tường, Une voix dans la nuit, có bút pháp mạnh mẽ, đầy hấp lực và hình ảnh, mỉa mai và châm biếm, chặt chẽ trong lập luận pháp lý, là sự đồng quy của văn chương và luật pháp trong một ngòi bút nhà văn.

Tập tài liệu của nha sĩ Nguyễn Văn Lung trao cho chúng tôi năm 2003, với những bút tích quý giá này, sẽ được gửi về Viện bảo tàng văn học hoặc lịch sử, khi điều kiện cho phép.

Ở trong nước, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh (16/9/1909 – 16/9/2009), Nguyễn Mạnh Tường được thần tượng hoá trở lại, với những mỹ từ “thông minh siêu việt” “lưỡng khoa tiến sĩ” “kỷ lục chấn động học đường nước Pháp”, “nhà sư phạm lỗi lạc”… Những điều đó ít nhiều có thật, tiếc rằng còn một sự thật đáng nói hơn là cuộc đời và tác phẩm của ông, hiện vẫn bị chôn vùi trong bóng tối.

Duy chỉ có giáo sư Nguyễn Văn Hoàn là trung thành với lời nói của thày Tường.

Còn phần lớn những học trò cũ, nay đã thành các nhà giáo nhân dân, không ngần ngại xoá bỏ quãng đời sa mạc hơn 30 năm của thầy Tường, để thay thế bằng một sự nghiệp liên tục tốt đẹp, không vết phong trần: “Chiến thắng Điện Biên Phủ, hoà bình được lập lại, toàn gia đình giáo sư Nguyễn Mạnh Tường mới trở về Hà Nội. Giáo sư tiếp tục giảng dạy tại trường Đại học tổng hợp Hà Nội và làm việc tại Viện Nghiên cứu Giáo dục từ 1954 đến 1970. Từ khi nghỉ hưu, giáo sư dạy Pháp ngữ tại nhà theo yêu cầu, và theo đuổi những công trình khoa học cứu của mình.” (Trần Văn Hà, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, tự học và quyết tâm là bí quyết thành công, Xưa và Nay, số 11, 1996).

Sự đánh bóng và ngoa ngôn, cũng là một cách chôn thày thêm lần nữa, đáng ngại là nó xẩy ra ở những ngòi bút của các giáo sư đại học, mà sự chính xác phải là châm ngôn giảng dạy:

Ví dụ, về việc Nguyễn Mạnh Tường gặp chủ tịch Hồ Chí Minh trong đại hội “Liên hoan anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc” năm 1952 ở Việt Bắc, nhà giáo nhân dân Nguyễn Đình Chú cam đoan rằng: “Riêng đối với giáo sư [NMT] đây là những giây phút (…) gắn bó thiêng liêng máu thịt giữa giáo sư với cách mạng, với lãnh tụ, đến mức cực độ”.

Hoặc để chứng minh những “vinh quang chói lọi” của thày Tường, ông Nguyễn Đình Chú không ngần ngại xác định: “thân phụ là một công nhân“, “Nguyễn Mạnh Tường đã liên tiếp tốt nghiệp cao đẳng văn chương, cử nhân văn chương, cử nhân luật khoa, làm luật sư toà thượng thẩm Montpellier, cao đẳng ngôn ngữ, và văn tự cổ”; và luận án tiến sĩ được phê “siêu ưu” (ông dịch chữ très bien) (trong bài Thầy tôi, Hồ sơ Nguyễn Mạnh Tường, mạng Vietstudies). Chẳng hiểu Pháp có các bằng cao đẳng văn chương, cao đẳng ngôn ngữ, và văn tự cổ từ thủa nào? Và Nguyễn Mạnh Tường chỉ mới tập sự luật sư, khi ở Pháp.

Ông Phong Lê, giáo sư, Viện trưởng Viện văn học, viết: “Năm 1928, đỗ cao đẳng văn chương, năm 1929, đỗ cử nhân văn chương, cũng năm 1929, đỗ cử nhân Luật- Năm 1931, đỗ cao đẳng ngôn ngữ văn tự cổ (tức chữ La Tinh và Hy Lạp cổ”. Rồi một chỗ khác, ông giải thích thêm: “Mà cử nhân thì còn lâu mới đến Tiến sĩ, sau khi vượt được cái ngưỡng cửa Thạc sĩ. (Lúc này tất cả các thầy Pháp ở Đại học Đông Dương đều mới chỉ có bằng Thạc sĩ)”. (Hồ sơ Nguyễn Mạnh Tường, mạng Vietstudies)

Thì ra các giáo sư Nguyễn Đình Chú và Phong Lê chẳng hiểu gì về văn bằng ở Pháp.

Riêng ông Phong Lê còn nhầm Thạc sĩ (Agrégé) của Pháp, một kỳ thi tuyển rất khó, với văn bằng hiện nay ở Việt Nam gọi là Thạc sĩ, tương đương với Maîtrise của Pháp, hay Master của Mỹ. Khi dịch Maîtrise hay Master thành Thạc sĩ, Bộ Giáo Dục, vì không hiểu lịch sử của hai chữ Thạc sĩ, nên đã dịch bậy, gây lầm lộn như thế.

Thạc sĩ là một kỳ thi tuyển (concours) chọn các giáo sư của Pháp để dạy các trường trung học (thạc sĩ văn chương, khoa học), hay đại học (thạc sĩ luật hay y khoa -nay đã bỏ-). Để dự thi thạc sĩ văn chương hay khoa học, thí sinh cần phải có bằng cử nhân (licence ngày trước, maîtrise hiện nay), riêng thạc sĩ luật (và y khoa) đòi hỏi bằng tiến sĩ.

Việt Nam có Nguyễn Mạnh Tường đỗ 2 bằng Tiến sĩ quốc gia (1933) và Phạm Duy Khiêm đỗ Thạc sĩ (1935), sau này về y khoa có Thạc sĩ Trần Đình Đệ… đều là những người học giỏi nổi tiếng.

Tác phẩm của Nguyễn Mạnh Tường

Trong lá thư đề ngày 16/8/1994 gửi Nguyễn Văn Lung, Nguyễn Mạnh Tường viết:

“Tôi vẫn tiếp tục làm việc, dậy học và hoàn tất cuốn tiểu thuyết mới nhất Palinodies [Phủ nhận] cuốn sách thứ 18 của tôi”. Như vậy tạm coi Palinodies là tác phẩm cuối cùng, và là cuốn sách thứ 18 của ông.

Với những tư liệu hiện hành, xin tạm kê khai những tác phẩm của Nguyễn Mạnh Tường như sau:

Thời kỳ 1932, các luận án, Pháp văn:

1/ L’Individu dans la vieille cité annamite- Essai de synthèse sur le Code de Lê (Cá nhân trong xã hội cổ Việt Nam – Tổng luận Luật Hồng Đức): Luận án tiến sĩ Luật.

2/ Essai sur la valeur dramatique du théâtre d’Alfred de Musset (Giá trị bi kịch trong tuồng của A. Musset) luận án chính (thèse principale), tiến sĩ văn chương.

3/ L’Annam dans la littérature française, Jules Boissières (Việt Nam trong văn chương Pháp, tác phẩm của Jules Boissières), luận án phụ (thèse complémentaire), tiến sĩ văn chương.

Thập niên 1940, tác phẩm Pháp văn:

4/ Sourires et larmes d’une jeunesse (Nụ cười và nước mắt tuổi trẻ), Revue Indochinoise, Hà Nội, 1937.

5/Construction de l’Orient-Pierres de France (Xây dựng Đông phương-Nền tảng Pháp), Revue Indochinoise, 1937.

6/ Construction de l’Orient – Apprentissage de la Méditerranée (Xây dựng Đông phương – Kinh nghiệm Địa Trung Hải), Collection Tendances, Hà Nội, 1939.

7/ Le voyage et le sentiment (Du hành và cảm xúc), kịch ba màn, Collection Tendances, Hà Nội, 1943.

1950, Việt văn:

8/ Một cuộc hành trình (Minh Đức, Hà Nội, 1954) (nửa hồi ký, nửa nghị luận. Hành trình một người trí thức tham gia kháng chiến)

Sau 1958, Việt văn:

9/ Lý luận giáo dục Âu châu thế kỷ XVI, XVII, XVIII, từ Erasme tới Rousseau (tên Pháp: Doctrines pédagogiques de l’Europe du XVI au XVIIIe siècle, d’Erasme à Rousseau), nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1994.

10/ Eschyle và bi kịch cổ đại Hy Lạp (Eschyle et la tragédie grecque), nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1996.

11/ Orestia (dịch và chú giải bi kịch của Eschyle sang tiếng Việt). Chưa in

12/ Virgile, nhà thơ vĩ đại của thời kỳ La Mã cổ đại [tên gốc:Virgile và anh hùng ca La tinh- Virgile et l’épopée latine], nxb Khoa Học Xã Hội, 1996.

Bắt đầu viết tự truyện, tiếng Pháp: Larmes et sourires d’une vieillesse.

Sau khi đi Pháp về (1990-1994), hoàn tất cá tác phẩm, Pháp văn:

13/ Larmes et sourires d’une vieillesse (Nụ cười và nước mắt tuổi già), tự truyện, ba cuốn, chưa in.

14/ Triptyque (tạm dịch: Bức họa ba tấm), chưa in.

15/ Un excommunié (Kẻ bị khai trừ), Quê Mẹ, Paris, 1992.

16/ Malgré lui, malgré elle (Mặc hắn, mặc nàng) (l’amour conjugal sous le régime communiste) (tình yêu vợ chồng dưới chế độ cộng sản). Chưa in.

17/ Partir, est ce mourir? (Đi là chết?) (Tragédie de l’émigration) (Bi kịch di dân). Chưa in.

18/ Une voix dans la nuitRoman sur le Việt Nam 1950-1990 (Tiếng vọng trong đêm-Tiểu thuyết về Việt Nam từ 1950 đến 1990). Chưa in.

19/ Palinodies (Phủ nhận). Chưa in.

Trừ bản dịch Orestia, thì đúng Nguyễn Mạnh Tường đã viết 18 cuốn sách (kể cả các luận án tiến sĩ).

Trừ bốn cuốn tiếng Việt, phần còn lại, để bảo tồn tự do của ngòi bút, để thế giới có thể đọc được, để giữ an ninh cho gia đình, và bảo toàn bản thảo, Nguyễn Mạnh Tường đã chọn tiếng Pháp. Vì vậy, muốn đọc và hiểu ông, cần phải biết tiếng Pháp, hoặc phải có bản dịch. Văn chương điêu luyện của ông không dễ dịch, bản dịch Un excommunié (Kẻ bị mất phép thông công) của Nguyễn Quốc Vĩ (trên các mạng Thông Luận, Vietstudies) mới chỉ là bản đầu tiên, chưa diễn đạt được văn phong uy vũ của Nguyễn Mạnh Tường. Ngay trong cái tựa Un excommunié, tác giả đã có ý so sánh chế độ cộng sản như một giáo hội cuồng tín, loại trừ kẻ ngoại đạo (những người không cộng sản), vì vậy, nên dịch theo nghiã bóng Kẻ bị khai trừ, hơn là dịch theo nghiã đen, Kẻ bị mất phép thông công, yếu và khó hiểu.

Con đường hoà hợp văn hoá Đông Tây

Nguyễn Mạnh Tường sinh ngày 16/9/1909 tại phố Hàng Đào; nguyên quán: xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Mất ngày 13/6/1997 tại nhà riêng, 34 Tăng Bạt Hổ, Hà Nội.

Cha: Nguyễn Căn Cát, công chức. Năm 1937, kết hôn với cô Tống Lệ Dung, có ba con: Nguyễn Tường Hưng, Nguyễn Dung Nghi và Nguyễn Dung Trang.

Học tiếng Pháp từ nhỏ. Collège Paul Bert, rồi lycée Albert Sarraut, Hà Nội.

1925, đậu Tú tài triết học (16 tuổi), hạng ưu. Được học bổng sang Pháp học Luật và Văn chương tại đại học Montpellier.

1927, đậu cử nhân văn chương với 4 chứng chỉ: văn chương Pháp, văn chương Hy Lạp, văn chương La Tinh và Bác ngữ học (Philologie).

1930, đậu cử nhân Luật. Dự định thi tuyển Thạc sĩ (concours d’Agrégé) để dậy học, nhưng vì quốc tịch Việt nên không được thi. Sửa soạn luận án tiến sĩ quốc gia (doctorat d’état). Trong thời gian làm luận án, ông thực tập luật sư tại toà Phúc thẩm Montpellier.

Tháng 5/1932, ông bảo vệ luận án tiến sĩ Luật, đề tài: L’Individu dans la vieille cité annamite- Essai de synthèse sur le Code de Lê (Cá nhân trong xã hội Việt Nam cổ – Tổng luận Luật Hồng Đức). Tháng 6/1932, bảo vệ luận án tiến sĩ văn chương với luận án chính: Essai sur la valeur dramatique du théâtre d’Alfred de Musset (Giá trị bi kịch trong tuồng của A. Musset) và luận án bổ túc: L’Annam dans la littérature française, Jules Boissières (Việt Nam trong các tác phẩm của Jules Boissières).

Trả lời phỏng vấn của Phạm Trần, Nguyễn Mạnh Tường giải thích:

“Chính sách đàn áp của thực dân (đặc biệt sau vụ nổi dậy của Việt Nam quốc dân đảng), chương trình học, cũng như mặc cảm lạc hậu về đất nước khiến người trí thức hồi đó dễ xa lìa mạch sống dân tộc. Thế nên, cái vấn nạn lớn nhất của chúng tôi thời đó là làm cách nào để dung hợp hai nền văn hoá Đông Tây đối chọi nhau. (…) Để hoà hợp, căn bản đầu tiên là phải hiểu nhau. Hai nền văn hoá phải cho nhau biết bản sắc, lề lối suy nghĩ (mentalité) của mình. Từ đó, gạn đục khơi trong để tổng hợp. Và căn bản nghiên cứu của tôi phát xuất từ nhận định đó. Tôi khảo sát nét hay của văn minh Âu. Tôi mơ ước đem văn minh vật chất Âu kết vào vũ trụ tình cảm Đông”.

“Ngay từ khi viết luận án, tôi đã mang ý hướng ấy. Luận án Luật tôi dành cho Việt Nam. Tôi khảo sát cái chủ nghiã cá nhân (một sản phẩm đặc thù Âu Tây), đã thể hiện ra sao trong văn hoá Việt, cụ thể qua Luật Hồng Đức (thế kỷ XV), một bộ luật còn mang nhiều dân tộc tính. Đề tài chính của luận án văn, tôi dành cho văn hoá Pháp; đề tài phụ tôi dùng J. Boissières để kết nối Đông Tây. Boissières đã vẽ lại bức tranh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX và đã đặt chính sách thực dân trước những vấn nạn lương tâm khó xử”. (Hạnh ngộ cụ Nguyễn Mạnh Tường, Hai thế hệ, một tâm tình, Phạm Trần ghi, Paris, 16/11/1989, tài liệu đánh máy).

Chú thích: Jules Boissières, thuộc ngành hành chính dân sự, 1886 đến Bắc Kỳ cùng với Paul Bert và làm phụ tá cho Paul Bert. Paul Bert, bác học và chính trị gia, học trò của Claude Bernard, là vị Tổng trú sứ (Résident général) Bắc và Trung kỳ có đầu óc tự do, ôn hoà, chủ trương hợp tác Pháp Việt, ông mở các trường Pháp-Việt đầu tiên ở Bắc và Trung (ở Nam Kỳ có từ 1867). Năm 1886, Paul Bert mất tại Hà Nội. Boissières mất tại Hà Nội năm 1897, ở tuổi 34, nổi tiếng với tập truyện ngắn Fumeurs d’opium (Những kẻ hút thuốc phiện) in năm 1919.

Đậu hai bằng tiến sĩ ở tuổi 22

Một trường hợp hiếm có ở đại học. Nguyễn Mạnh Tường thành công vì làm việc cật lực:

“Từ lớp sáu cho tới tú tài, mỗi tuần tôi có thói quen đọc 2 cuốn tiểu thuyết Tây. (…) và nhất là do cật lực làm việc: suốt 5 năm dài, mỗi sáng tôi thức dậy từ 4 giờ, học và viết tới 8 giờ thì đi lớp; chiều lại học tới khuya.” (Phạm Trần, bđd).

Tháng 9/1932, ông về nước, ở 3 tháng, rồi lại sang Pháp.

Việc này, trong các bài trả lời phỏng vấn ở Paris, không thấy ông nói đến. Một số người đưa ra thuyết: “chính quyền thực dân Pháp không muốn dùng ông. Không tìm được việc làm xứng đáng với học vị của mình, ông lại sang Pháp” (Trần Văn Hà, bđd)

Nhưng theo Nguyễn Văn Hoàn, thì Nguyễn Mạnh Tường kể lại rằng: “Về nước có hai viên mật thám, trong đó có Louis Marty, gặp và gợi ý tôi vào làm việc với Bảo Đại, cấp bậc Thượng thư. Tôi từ chối, sau đó họ gây khó khăn, ở nhà ba tháng, tôi trở lại Pháp” (Nguyễn Văn Hoàn, Kỷ niệm về thầy Nguyễn Mạnh Tường, tháng 10/2009, báo Hồn Việt, mạng Vietstudies).

Chứng này có thể tin được vì Nguyễn Mạnh Tường và Bảo Đại cùng về nước tháng 9/1932, và bản thân ông muốn đứng về phía dân, không tham chính.

Tháng 12/1932, ông trở lại Paris.

Từ 1933-1936: du lịch nhiều nước Âu Châu.

Thành thật nói, tôi đã trở thành một hiện tượng. Các báo ở Paris và Montpellier dành cả số nói về tôi. Có tờ coi sự thành công của tôi là một “sai lầm” của Pháp [ông muốn nói đến bài của Clément Vautel]. Song hầu hết đều nói tốt. Cũng nhờ vậy mà nhiều đại học Âu Châu biết và mời tôi tới thăm. Tôi đã có dịp Âu du một vòng không mất tiền từ London sang La Haye xuống Bruxelles, Berlin, Athènes, Rome, Istanbul, Vienne, Madrid… Tôi còn nhớ trên đường từ Berlin về Vienne thời đó (1933) tôi ngang qua Munchen và tham gia cuộc biểu tình lớn của Hitler tổ chức.” (Phạm Trần, bđd).

Theo cuốn Apprentissage de la Méditérannée (Kinh nghiệm Địa Trung Hải) ông đến Madrid tháng 4/1933, đi thăm các tỉnh Tây Ban Nha và đi Ý; năm 1934 sang Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Vậy ông đã nhớ lầm trật tự các chuyến đi, khi trả lời Phạm Trần 60 năm sau.

Ở đây, chúng ta cũng nên đọc qua bài báo của Clément Vautel, tiêu biểu cho khuynh hướng thực dân ngạo mạn và kỳ thị. Bài ngắn, chúng tôi dịch cả để độc giả thấy giọng điệu xỏ xiên này:

“Một tay An-nam-mít 22 tuổi, tên Nguyễn Mạnh Tường, vừa giật dễ dàng hai bằng tiến sĩ luật và văn chương ở đại học Montpellier. Hắn chỉ học có năm năm đã đoạt hai phẩm hàm cao nhất của phương Tây.

Tay trí thức “da vàng” này, đặc biệt nổi trội khi trình luận án văn chương với đề tài tuồng Alfred de Musset, có thể dạy cho bọn bỉnh bút của ta một bài học đích đáng. Ban giám khảo đã có lời khen rồi, tôi chả có tư cách gì mà chêm vào nữa.

Thực đếm không xuể số trẻ Đông Dương đoạt đủ loại bằng cấp tại Pháp: chúng đạt những thành quả ở đại học mà bọn “rợ trắng” không khá bằng, thèm muốn.

Rất chăm chỉ, thông minh, lại đầy tham vọng, những tay Á châu này tháo gỡ như bỡn những bí quyết trong đỉnh cao học thuật của chúng ta, rồi về xứ rêu rao:

– Cái văn minh nức tiếng kia rút cục chỉ có thế ư? Xa trông, tưởng ghê gớm, chứ đến gần, nào có ra gì!

Vì vậy, tôi tự hỏi, chúng ta chẳng đã phạm những nhầm lẫn sơ đẳng nhất, khi dạy cho các tướng này những bí quyết “văn hoá” của chúng ta, để khi về nước, chúng không còn tin vào tính ưu việt của giống nòi da trắng đang bảo hộ chúng.

Việc mở cửa cho bọn bản xứ vào các đại học của ta, và tưới xả láng chúng những bằng tiến sĩ này nọ, xem thì cũng ngộ đấy; nhưng chớ có ảo tưởng, coi đó là phương tiện xoá dấu vết xâm lăng để từ thời đại đô hộ nhẹ bước sang thời đại cộng tác.

Không phải tất cả những tên da vàng được ta bôi trát thứ trí thức trắng này, sẽ xoay sang đỏ choé khi chúng về tới bờ sông Hồng, nhưng nhiều đứa trong bọn sẽ trở thành cán bộ của cái đảng cộng sản, mà ở Âu Châu, thì tuyên bố vô tổ quốc, nhưng về đến nền thuộc địa, lại rao giảng chủ nghiã quốc gia trăm phần trăm.

Thử hỏi làm sao mà khác cho được? Cái làm tôi ngạc nhiên, là một cô gái Đông dương -bởi có cả bọn sinh viên con gái da vàng nữa- về nước với bằng giáo sư sử học, tuyên bố: Chừ tôi mới chính là Jeanne d’Arc đây! Vậy mà ả vẫn chưa thành “Nữ Thánh đồng trinh đỏ” của cuộc cách mạng giải phóng.

Theo tôi, khôn ngoan ra, thì ta nên khai hoá dân bản xứ bằng chính cái văn miêng của chúng. Thử hỏi cái luận án của một tay An-nam-mít về tuồng hát của Musset, là cái giống gì? Dù tuồng đó có đậm đà, tinh tế, cao nhã, gì gì đi nữa, thì nó cũng chẳng làm cho kẻ bị đô hộ có cảm tưởng tốt đẹp về đạo đức của người đô hộ.

Đừng quên Gandhi cũng đã đỗ đạt ở bên kia bờ biển Manche, và, với cái guồng sợi của mình, hắn đã làm cho nước Anh rối loạn… Cứ từ từ, rồi một ngày, chúng ta cũng sẽ như vậy.” [Mon film (Ống kính của tôi) của Clément Vautel, báo Le Journal ngày 17/7/1932].

Bài báo nói lên lòng căm thù chủng tộc và ganh tỵ nhân tài.

Về nước, những sáng tác đầu tiên

Chuyến đi thăm miền Địa Trung Hải đã giúp Nguyễn Mạnh Tường viết 4 tác phẩm:

Sourires et larmes d’une jeunesse, Construction de l’Orient-Pierres de France, Construction de l’Orient-Apprentissage de la MéditéranéeLe voyage et le sentiment.

Ông giải thích ý nghiã hai tác phẩm đầu:

“Tây cho Đông kỹ thuật, quan niệm về nhân quyền, về cái chừng mực và đa dạng của con người, về phương pháp suy tư và về một quan điểm đời sống. Và tôi đã viết hai cuốn: “Pierres de France (Nguyên liệu từ Pháp), “Apprentissage de la Méditérranée” (Học hỏi văn minh Địa Trung Hải) để diễn tả những điểm trên” (Phạm Trần, bđd).

Hai cuốn sách còn lại, viết về sự xung đột giữa hai nền văn minh Đông Tây:

“Sourires et larmes d’une jeunesse” (Nụ cười và nước mắt tuổi thanh xuân) diễn tả cái xung đột giá trị nơi một thanh niên Việt thấm nhiễm văn hóa Tây. Chàng thanh niên được ví như đứa con hoang đàng trong Kinh Thánh, đã quen với nếp sống tự do, nay trở về bị truyền thống gia đình ràng buộc. Và chàng đã phải tự đấu tranh tìm một giải pháp dung hòa cho cuộc sống. Vở kịch “Le voyage et le sentiment” (Du hành và tình cảm) nói lên hai khía cạnh khác nhau giữa Đông (nặng tình cảm, thuỷ chung) và Tây (như một tay du lịch luôn đi tìm của lạ). Các sách đó tôi viết từ năm 1930-1940, chỉ xuất bản vài trăm cuốn mỗi thứ và đã hết hơn nửa thế kỷ nay. Giờ muốn in lại một ít mà đành chịu vì thiếu phương tiện”. (Phạm Trần, bđd).

Khác hẳn những người lớp trước như Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Văn Trường, Phạm Quỳnh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh… hoặc cùng thời với ông như Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lãng (cả ba đều sinh năm 1909), Nguyễn Mạnh Tường sùng bái cái học Tây phương, trong khi những người kia, dù phục Tây phương, nhưng vẫn cho Đông phương là nguồn cội của tư tưởng.

Tóm lại, theo người thanh niên Nguyễn Mạnh Tường, để xây dựng một Đông Phương mới, chúng ta nên học hỏi kinh nghiệm Địa Trung Hải, tức là học sự giao lưu văn hoá Ả Rập-  Hy La ở vùng Địa Trung Hải. Giả sử hồi đó, ông đi Ấn Độ, thì tư tưởng của ông có thể thay đổi: bởi Ấn Độ mới là nơi loài người thực hiện sự giao lưu văn hoá sớm nhất và thành công nhất. Mặc dù triết học Ấn độ là cha đẻ của triết học nhân loại và các đền đài ở Ấn Độ là những kỳ công kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ Á Âu; nhưng Ấn Độ hiện hành, cũng như Ai Cập, Trung Hoa, vẫn còn là những nước “thứ ba”. Vậy, văn minh văn hoá và văn minh khoa học; văn minh văn hoá và dân chủ tự do, có những tương quan như thế nào? Đó là những câu hỏi phức tạp khác.

Năm 1936, về nước, ông dạy văn chương Pháp ở trường Bảo hộ (Lycée du Prétectorat, tức là Chu Văn An sau này) và trường Cao đẳng Công Chánh ((Ecole Supérieure des Travaux Publics).

“Sau 5 năm đi du lịch, năm 1936 tôi về nước được vào dạy ở Trường Bảo Hộ (Trường Bưởi). Nhà ở số 1 Mai Xuân Thưởng, trông ra Hồ Tây, chỉ cách trường 200 mét. Đây là một quãng thời gian hạnh phúc của đời tôi. Đồng nghiệp thì có Hoàng Xuân Hãn dạy Toán, Nguyễn Văn Huyên dạy Sử, Kontum dạy Vật lý” (Nguyễn Văn Hoàn, bđd).

Ngoài ra, ông còn học thêm chữ nho và văn chương cổ điển Việt, tham gia phác họa cuốn Việt Nam Văn Phạm với nhóm Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, hợp tác làm Việt Nam tự điển với nhóm Khai Trí Tiến Đức:

“Bỗng nhiên tôi nhớ năm 1936, sau chuyến về nước ở luôn, tôi bắt đầu học chữ nho và góp phần làm cuốn Việt Nam văn phạm của Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ, và cộng tác biên soạn tự điển Khai Trí Tiến Đức” (Un Excommunié, trang 286).

Trong thời kỳ này, ông làm phụ tá cho Thị trưởng Hà Nội.

Georges Boudarel, trong bài nghiên cứu tựa đề Le tort de parler trop tôt (Sai lầm vì nói sớm quá) chủ đích giới thiệu bài tham luận Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất xây dựng quan điểm lãnh đạo với độc giả Pháp, đã phân tích khá rõ tâm trạng của Nguyễn Mạnh Tường và thành phần ưu tú của đất nước theo Việt Minh năm 1945, như sau:

“Trở về Bắc kỳ, năm 1936, ông dạy văn chương Pháp tại trường Bảo Hộ và trường Cao đẳng Công chánh (Ecole Supérieure des Travaux Publics). Vì cứ in hoài những tập tiểu luận ngẫu hứng từ những ngày sống ở Pháp, đã để lại trong ông những cảm tưởng không phai mờ (…) cuối cùng, ông trở thành đệ nhị phụ tá cho Thị Trưởng thuộc địa Hà Nội.

Dù hết sức ngưỡng mộ Paris và nước Pháp (khó có thể làm hơn), nhưng tới giờ phút quyết định, Nguyễn Mạnh Tường trong sâu thẳm của tâm hồn, vẫn là người Việt. Dường như ông nghĩ, mình chỉ trung thành với những lý tưởng hun đúc ở Paris: độc lập, tự do, nhân quyền và dân quyền. Năm 1945, cùng toàn bộ thành phần ưu tú của dân tộc (kể cả các vị giám mục thời ấy), ông đi theo chính phủ Hồ Chí Minh”. [Trích dịch Le tort de parler trop tôt (Sai lầm vì nói sớm quá), in trong Sudestasie số 52, tháng 5/1988, việc NMT làm phụ tá Thị trưởng, Boudarel dựa theo tài liệu trong cuốn Souverains et notabilités d’Indochine, Éditions du Gouvernement général de l’Indochine, 1943, trang 99)].

Nghỉ dạy học, mở văn phòng luật sư

Tới năm 1940, ông nghỉ dậy học, mở văn phòng luật sư:

“Năm 1940, Pháp thua trận, Nhật đưa quân vào Đông Dương, lập ra một Hội đồng, do Phạm Lê Bổng đứng đầu, vận động nông dân bán lúa, gạo cho Nhật. Họ muốn tôi tham gia nhưng tôi từ chối. Họ lại gây khó khăn, tôi nộp đơn xin từ chức, ra mở văn phòng luật sư ở phố Trần Hưng Đạo [trước là Gambetta], đây là nghề tôi đã tập sự bên Pháp”. (Nguyễn Văn Hoàn, bđd).

Theo Nguyễn Đình Nhân, “Từ năm 1942 đến 1945: ông mở phòng luật sư chung với hai đồng nghiệp Trần Văn Chương [cha bà Ngô Đình Nhu] và Vũ Văn Hiền” (Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường từ trần tại Việt Nam, Tin Tức, 7-8/1997, Paris).

Tháng 10/1945, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh lập thêm Đại học văn khoa, Nguyễn Mạnh Tường được cử dạy văn chương Tây phương:

Hội nghị Đà Lạt (17/4/1946- 12/5/1946)

Hội nghị Đà Lạt họp từ 17/4/1946 đến 12/5/1946. Bàn về các vấn đề đã dự trù trong hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Phiá Việt Nam, Nguyễn Tường Tam làm trưởng phái đoàn, Võ Nguyên Giáp, phó. Phía Pháp: Max André (nghị sĩ), trưởng phái đoàn.

Chủ tịch các ủy ban: Hoàng Xuân Hãn, chính trị. Võ Nguyên Giáp, quân sự. Nguyễn Mạnh Tường, văn hoá. Trịnh Văn Bính, kinh tế và tài chính.

Về hội nghị này, trả lời Hoà Khánh ở Paris, Nguyễn Mạnh Tường cho biết:

“Năm 1946, một hôm, ông Nguyễn Hữu Đang, người sau này tham gia Nhân Văn Giai Phẩm và bị cộng sản kết án 15 năm tù, đến văn phòng luật sư của tôi nói là cụ Hồ mời tôi đến gặp Cụ có việc cần. Nguyễn Hữu Đang chở tôi đến cái chỗ sau này gọi là Phủ Chủ tịch. Ở đó Vũ Đình Huỳnh, Vụ trưởng vụ Lễ tân, ra tiếp và đưa vào gặp Cụ Hồ. Cụ gọi tôi là Ngài. Cụ nói: “Như Ngài đã biết, chính phủ vừa ký kết với Pháp một bản tạm ước. Theo bản tạm ước ấy, sắp tới giữa ta và Pháp sẽ có một hội nghị quan trọng. Xin Ngài giúp soạn dùm cho một bản lập trường của chính phủ (thèse gouvernementale) để sử dụng như một cương lĩnh chỉ đạo cuộc hội nghị”. Tôi đáp: “Công việc này quan trọng quá, xin cụ nhờ một người nào giỏi và có kinh nghiệm hơn tôi”. Cụ Hồ nói: “Tôi đã hỏi ý kiến nhiều người và ai cũng bảo là chỉ có Ngài mới có thể làm được thôi”. Cuối cùng, tôi nhận lời, về nhà, đóng cửa văn phòng luật sư, vận dụng tất cả kiến thức về luật pháp quốc tế cũng như những điều khoản căn bản của tạm ước để soạn bản lập trường. Đến khi đem trình, được Cụ Hồ chấp thuận và do đó, buộc tôi phải tham dự Hội Nghị Đà Lạt. (…)

Chỉ có một điều ít ai biết là, kết thúc cuộc hội nghị, hai bên đã tổ chức một bữa tiệc chung. Trong bữa tiệc ấy, tên tùy viên của thủy đô đốc D’Argenlieu đến cạnh tôi, nói là thuỷ đô đốc muốn gặp tôi để nói chuyện. Tôi bảo là tôi không phải trưởng đoàn do đó không có tư cách gì để gặp gỡ thủy đô đốc cả. Tên tùy viên lại bảo đây là sự gặp gỡ thân mật có tính cách cá nhân thôi chứ không phải để bàn bạc chuyện gì quan trọng cả. Nghe thế, tôi rời bàn tiệc ra ngoài hành lang gặp D’Argenlieu. Lúc ấy trong bàn tiệc ai cũng thấy cả. Và cuộc nói chuyện cũng rất vu vơ, thăm hỏi xã giao về công ăn việc làm thôi. Thế nhưng, về Hà Nội bỗng dưng lại có tin đồn là Nguyễn Mạnh Tường thông đồng với giặc, là Nguyễn Mạnh Tường bán nước.

Hỏi: Luật sư có biết tin đồn đó phát xuất từ đâu không?

NMT: Thì cũng phải có người phát thì nó mới động chứ. Tin đồn đó là cả một chiến dịch được tổ chức hẳn hoi. Anh Hoàng Xuân Hãn lúc ấy phải đến gặp hình như là Võ Nguyên Giáp thì phải, bảo Tường làm cái gì mà người ta lại tung tin đồn là nó bán nước, theo giặc ghê quá vậy. Nguy cho nó lắm. Mà nguy thật. Chỉ cần một phát súng, một mũi dao là xong đời chứ gì. Từ khi anh Hãn can thiệp, tin đồn ấy mới lắng xuống rồi biến mất”. (Hoà Khánh, Ba giờ với luật sư Nguyễn Mạnh Tường, phỏng vấn ghi âm, viết lại, đăng trên Giai phẩm xuân Quê Mẹ, số 105-106, tháng 1/1990).

Nguyễn Văn Hoàn, ghi:

“Lúc tiễn đoàn lên đường, cụ Hồ nói to:Xin chúc anh em đi thành công, đặc biệt tôi có lời khuyên: Nội bộ đoàn kết, phải đấu tranh găng nhưng không được gãy”. Hoàng Xuân Hãn có viết hồi ức về Hội nghị nhưng không nhắc lại chi tiết quan trọng này, tôi hỏi thì anh bảo quên!” (…)

Kết thúc hội nghị, D’Argenlieu có tổ chức tiệc trà tiễn Đoàn. Một sĩ quan hầu cận Pháp đến nói: Thủy Sư Đô đốc muốn gặp riêng Ngài. Tôi nói: Tôi chưa hân hạnh được quen biết Ngài Thủy Sư Đô đốc. Có anh em nói: Nó mời thì anh cứ đi, tôi đi xuyên qua phòng họp, đông khoảng một trăm người, đến gặp nó, chỉ toàn nói chuyện xã giao vớ vẩn. Thế mà khi về Hà Nội, có dư luận nói: “Tường là tay trong của Pháp, Tường phản quốc”, Hãn tức, đến gặp Võ Nguyên Giáp, dư luận mới được dập tắt.” (Nguyễn Văn Hoàn, bđd)

Boudarel viết:

“Sau khi ở hội nghị về, Tường không được trao cho nhiệm vụ gì nữa, cũng như nhiều người yêu nước không cộng sản khác. Tuy vậy khi cuộc chiến bùng nổ ngày 19/12/1946, ông vẫn đi theo kháng chiến.” (Boudarel, bài đã dẫn)

Đi kháng chiến, nhưng không tham gia mặt trận Việt Minh

Ngày 19/12/1946 Toàn quốc kháng chiến.

Nguyễn Mạnh Tường đang biện hộ ở toà án Hải Phòng. Ông vòng xuống Nam Định để về Hà Nội, chuẩn bị gia đình tản cư. Trước khi đi, ông dâng toàn bộ tài sản cho cách mạng. Gia đình ông về Hà Nam (Ngô Khê). Pháp đánh Hà Nam, chạy sang Thái Bình.

Thái Bình (Liên khu Ba) là một địa điểm tụ họp đông đảo trí thức văn nghệ sĩ. Tháng 10/1948, hội văn nghệ Liên khu Ba được thành lập, Theo Bùi Huy Phồn (bài Đường về Liên khu Ba, Cách mạng Kháng chiến và đời sống văn học, tập 1, trang 155-163) và Phạm Duy (Hồi ký Cách mạng kháng chiến, trang 180-183), đây là thời kỳ đẹp nhất của kháng chiến: các trí thức, văn nghệ sĩ khuynh hướng khác nhau cùng hoạt động chung.

Nhưng cuối năm 1951, Pháp đánh chiếm Thái Bình. Chi hội văn nghệ phải chuyển về Vĩnh Lộc (Thanh Hoá). Văn nghệ sĩ, người về thành, người vào Khu Bốn (Thanh Hoá), vùng tướng Nguyễn Sơn.

Trả lời câu hỏi của Hoà Khánh ở Paris: Luật sư có thể cho biết luật sư đã tham gia phong trào Việt Minh và sau đó, tham gia kháng chiến như thế nào?

Nguyễn Mạnh Tường nói: “Thật ra, tôi không hề tham gia Mặt trận Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người yêu nước, luôn luôn ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước. Tuy nhiên tôi tự xác định cho mình một vị trí là làm một người trí thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, thì không nên tham chính. Do đó, tôi đã từng từ chối nhiều lời mời ra làm bộ trưởng của nhiều chính phủ. Người trí thức phải đứng về phía dân chứ không đứng về phía chính quyền. Người trí thức chỉ nên đứng ở lãnh vực thuần lý chính trị (politique spéculative), nghiên cứu, thúc đẩy các trào lưu.

Cách mạng tháng Tám làm tôi rất vui mừng. Tôi muốn đóng góp vào việc xây dựng đất nước trong hai lãnh vực sở trường của mình: luật học và nghiên cứu văn học.” (Hoà Khánh, bđd).

Nguyễn Văn Hoàn ghi:

“Năm 1946, tôi đang cãi ở Hải Phòng thì tiếng súng toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Tôi phải đi đường Nam Định để về Hà Nội, rồi tản cư đi Hà Nam, ở Ngô Khê. Nó đánh Hà Nam, chạy sang Thái Bình, ở Hưng Nhân. Nó đánh Thái Bình, chạy vào Thanh Hóa. Hồi dạy Dự bị Đại học, tôi ở dốc Đu, Thiệu Hóa, bên cạnh là nhà Hồ Đắc Liên, gần nhà Nguyễn Khánh Đàm, anh ruột nhà văn Nguyễn Tuân”. (Nguyễn Văn Hoàn, bđd)

Làm luật sư trong kháng chiến

Trong kháng chiến, ông cãi ở Toà Án nào? Và cãi cho ai? Một điều chắc chắn: ông cãi trong các toà án Kháng chiến (tức là toàn án của Việt Minh). Vậy loại toà án nào? Vì ở thời cải cách ruộng đất, ông cho biết các Toà án Nhân dân không cần chánh án, không cần luật sư.

Chắt lọc một số thông tin đáng tin cậy, chúng ta có thể xác định: ông cãi ở những toá án quân sự, đại hình, và được chính phủ kháng chiến cử làm luật sư chỉ định (avocat d’office), biện hộ cho những người quốc gia bị Việt Minh bắt và xử tội.

1- Boudarel viết:

“Trong những năm đầu chiến tranh, hình như luật sư Tường đã nhận cãi cho những trường hợp vô vọng, ông nhận biện hộ cho những người quốc gia bị kết tội phản quốc mà không có chứng cớ gì minh bạch. Lần vận động (hay lần cãi) cuối cùng hình như ở Đức Thọ, năm 1951” (Boudarel, bài đã dẫn).

2- Trần Văn Hà kể lại lời thầy Tường:

“Gia đình tôi [Nguyễn Mạnh Tường] chuyển dịch từ Phủ Lý về Thái Bình, rồi về Thanh Hoá. Tôi tiếp tục giảng dậy cho lớp Dự bị đại học ở Thanh Hoá, được cử làm luật sư của chính phủ đi bào chữa cho tội nhân tại toà án quân sự, đại hình. Cứ mỗi tháng là phải tới một tỉnh, với chiếc xe đạp tòng tọc. Nhiều đoạn đường, cái chết kề bên. Anh “ba lô viên” của tôi bị trúng đạn địch, đã bỏ mạng tại bờ sông Hồng” (Trần Văn Hà, bđd).

3- Trong bài Kiều Mai Sơn kể lại lời Vũ Đình Hoè, có một đoạn đáng chú ý:

“Tôi [Vũ Đình Hoè] lúc bấy giờ là Bộ trưởng Bộ Tư pháp nên cũng được họp trong phiên Chính phủ họp bàn về xử vụ ông Vĩnh Thụy đào nhiệm. Đó là vào hồi năm 1950 – 1951. Cụ Hồ không muốn truy tố.

Để hợp thủ tục dân chủ, Hồ Chủ tịch đề nghị giơ tay biểu quyết. Tất cả thành viên Chính phủ đều giơ tay lên, trừ cụ Bùi Bằng Đoàn [Cha ông Bùi Tín] – Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Cụ nói đồng ý là ông Vĩnh Thụy phạm tội nặng đối với Tổ quốc, nhưng cụ không nỡ giơ tay biểu quyết. Mọi người nhớ xưa cụ đã một thời giữ chức Thượng thư trong triều đình Bảo Đại. Cuối cùng Chính phủ quyết định giao cho Tòa án xét xử theo đúng pháp luật, phải làm đàng hoàng đầy đủ thủ tục, có luật sư bào chữa cho bị cáo vắng mặt.

Mấy tháng sau, Toà án quân khu III được thành lập do ông Lê Văn Chất làm Chánh án, ông Bùi Lâm làm Công cáo uỷ viên, một Hội thẩm chính trị là đại biểu quân đội, một Hội thẩm chuyên môn là ông Trần Đình Trúc – Thẩm phán do Giám đốc Tư pháp khu III phái sang. Hai luật sư cùng bênh vực cho bị cáo Vĩnh Thụy là ông Đỗ Xuân Sảng và ông Nguyễn Mạnh Tường.

Bản cáo trạng buộc tội ông Vĩnh Thuỵ rất đanh thép. Sau khi đã thực thi đủ thủ tục pháp lý và bàn luận kỹ càng, Hội đồng xét xử đã ra phán quyết vắng mặt bị cáo: Tử hình. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đề nghị ghi vào bản án xử theo điều luật của nhiều nước trên thế giới là: Tử hình vắng mặt, khi nào bắt lại được can phạm thì sẽ mở lại phiên toà chứ không được thi hành cái án đã tuyên trước đó.” (Kiều Mai Sơn, Nguyễn Mạnh Tường, Luật sư huyền thoại, An Ninh thế giới 10/10/2009, mạng Bee.net, mạng Vietstudies)

Vẫn trong bài này, Kiều Mai Sơn kể thêm mấy vụ khác:

– Vụ xử Quản Dưỡng, tức Trần Văn Dưỡng, ở Hà Đông, trước làm lính khố xanh, bị xử tội đã ra lệnh cho lính Bảo An bắn vào người biểu tình.

– Xử vợ một lãnh tụ Quốc Dân Đảng, ở Vĩnh Yên.

– Một nông dân giết kẻ ngoại tình với vợ, là một anh bộ đội (Đại Đội Trưởng), ở làng Xuân Thọ, Thái Bình.

– Hè 1951, một anh bộ đội đánh chết người đang “hủ hoá” với mẹ mình, tại Đức Thọ, Hà Tĩnh (lúc đó Nguyễn Mạnh Tường đã vào Thanh Hoá).

4- Hoàng Văn Chí viết:

“Từ 1947 đến 1950 ông làm trạng sư ở khu III. Trong khi bênh vực cho các bị cáo trước toà, ông hay dùng lời lẽ văn hoa để “nói mát” chế độ, nên ông bị chuyển sang ngành giáo dục.

Ông bị coi là một phần tử “ngoan cố”, không chịu “lột xác”, nên thường bị đả kích. Có lần cán bộ đã đặt ra một vở kịch nhan đề là “Phải hấp lại” để lăng mạ ông, nhưng ông không thèm trả lời.” (Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, trang 293)

Điều Hoàng Văn Chí viết “ông hay dùng lời lẽ văn hoa để “nói mát” chế độ” đượcphản ảnh trong lời kể của giáo sư Hoàng Như Mai:

“Vụ thầy Tường cãi đó là: cô con dâu cầm dao đâm bố chồng. Tôi không dự cái cuộc ấy nhưng được nghe người ta kể lại. Thầy Tường bào chữa: Xưa nay chuyện bố chồng con dâu, nhất là mẹ chồng nàng dâu xung đột với nhau là chuyện rất điển hình ở xã hội Việt Nam xảy ra coi như cơm bữa. Nhưng vì sao cô này lại đâm bố chồng? Vì khẩu hiệu của kháng chiến: Mỗi người sẵn sàng cầm vũ khí trong tay để giết giặc. Cho nên lỗi tại có vũ khí kia chứ không thì chị ấy không phạm tội giết bố chồng”. (Kiều Mai Sơn, bđd)

Những lời chứng trên đây phù hợp với nhau. Tóm lại, có thể nói: lần cuối cùng Nguyễn Mạnh Tường cãi ở Đức Thọ, Hà Tĩnh (theo Boudarel) và sau đó ông bị chuyển sang ngành giáo dục (Hoàng Văn Chí).

Một mặt khác, chính Nguyễn Mạnh Tường cũng viết về lý do đổ vỡ của ngành tư pháp và y tế ở Khu Ba và Khu Tư:

“Chính trị chèn ép chuyên môn như thế nào; xua đuổi người trí thức ra ngoài con đường cách mạng ra sao, lịch sử kháng chiến đã cho ta kinh nghiệm đau đớn. Năm 1949, phong trào tư pháp liên khu III tan vỡ vì chính quyền quan niệm tư pháp phải thuộc sự điều khiển của mình. Năm 1951, phong trào quân y, dân y liên khu IV sụp đổ vì các chính trị viên đưa vào các bệnh viện, đã đán áp chuyên môn, thúc đẩy các bác sĩ có công với cách mạng, với kháng chiến, phải gạt nước mắt mà rời bỏ kháng chiến”. (Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, trang 305)

Từ chối vào Đảng

Năm 1951, được đề nghị vào đảng, nhưng ông từ chối, rồi cuối cùng ông phải chấp nhận vào đảng Xã Hội, Nguyễn Mạnh Tường giải thích tại sao:

“Năm 1951, trong chiến khu [Khu Ba], Đặng Châu Tuệ, một đảng viên Cộng sản [Bí thư Đảng đoàn] đến bảo tôi và bác sĩ Nguyễn Xuân Nguyên nộp đơn xin vào Đảng. “Trên” đã chứng nhận hạnh kiểm và hoạt động của chúng tôi trong kháng chiến. Những người cộng sản thường say mê hình thức và mắc bệnh kiểm kê con người giống như tài sản, theo tuổi tác, phái tính, hoạt động nghề nghiệp để trộn họ vào những tổ chức quần chúng, để giáo dục và điều khiển họ một cách hữu hiệu hơn. Một mặt khác, vì Đảng không dung tha bọn trí thức ham hưởng thụ tự do và cá nhân chủ nghiã, nếu tập trung họ lại trong Đảng, thì cái địa vị tối cao và vai trò lãnh đạo sẽ làm họ phởn chí. Thật vậy, trong thời điểm đó, những kẻ có tham vọng, những kẻ cơ hội, mơ tưởng được vào hàng ngũ cộng sản đã làm không ít việc hạ tiện để đẹp lòng người chiêu nạp. Cũng cùng thời ấy, đã có khá nhiều trí thức, không chịu được đầu óc hẹp hòi và tính ngoan cố của những người cầm đầu, đã bỏ hàng ngũ cách mạng để về Hà Nội, rồi từ đó bay đi những chân trời tốt đẹp hơn. Vì thế, bác sĩ Nguyên và tôi xét “vinh dự” mà họ ban cho, chẳng qua chỉ là một thủ đoạn ngờ vực: họ muốn khoá trái chúng tôi trong các tổ Đảng được canh gác chặt chẽ để ngăn chặn không cho chuồn, nếu có kẻ manh tâm. Cả hai chúng tôi từ chối lời mời vào Đảng. Nhưng những người cầm đầu không cho đứng ngoài tất cả các tổ chức, họ đề nghị chúng tôi vào đảng Xã Hội. Cầm cự mãi cũng chán, chúng tôi bắt buộc phải chấp nhận. Bởi chẳng nên khăng khăng cương quyết từ chối mãi ý nguyện của Đảng, nhất là trong chiến khu, có những con mắt vô hình kiểm soát nhất cử nhất động. Khá là nguy hiểm.” (Trích dịch Un Excommunié, trang 205-206).

Tóm lại, Nguyễn Mạnh Tường rời Khu Ba khoảng mùa xuân năm 1951, sau khi từ chối vào Đảng. Tới tháng 5/1951, ở Khu Tư (Thanh Hoá) ông cãi lần cuối cùng tại Đức Thọ, Hà Tĩnh. “Tháng 2/1952, Trường Dự bị Đại học mới mở ở khu Tư, Thanh Hoá và Nghệ An, do nhà phê bình mác xít Đặng Thai Mai điều khiển, Nguyễn Mạnh Tường được gọi về dạy văn chương”. (Boudarel, bđd)

Hoàng Trung Thông cho biết:

“Các lớp học viết văn thì tổ chức ở Quần Tín [Thanh Hoá], Đặng Thai Mai là hiệu trưởng, Nguyễn Xuân Sanh phụ trách các công việc, tương đương với giáo vụ bây giờ. Khoá dự bị đại học đầu tiên có 5 học sinh. Các lớp sau đông hơn (…) Học sinh tới học do địa phương giới thiệu nhưng kinh phí hầu như phải tự túc hoàn toàn” (“Trên địa bàn văn nghệ khu Bốn và Việt Bắc, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập 1, Tác phẩm mới, 1985, trang 184).

Ở Khu Tư, Nguyễn Mạnh Tường vẫn tiếp tục đấu tranh tư tưởng với cách mạng :

“Cuộc tranh đấu tư tưởng duy nhất ở Liên khu Bốn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là cuộc đấu tranh với một số quan điểm của Nguyễn Mạnh Tường. Trong một cuộc nói chuyện Nguyễn Mạnh Tường cho rằng văn nghệ ta như một cái chuồng nhốt các văn nghệ sĩ trong đó. Ý kiến này lập tức đã làm nổi lên một làn sóng bất bình trong giới văn nghệ. Có hai bài phê phán ý kiến đó một cách nghiêm khắc trên tạp chí Thép Mới của Nguyễn Văn Tỵ và Chế Lan Viên. Khi đồng chí Lưu Trọng Lư, Chi hội trưởng văn nghê Liên khu Bốn, phụ trách tờ tạp chí Thép Mới, đến gặp đồng chí Trường Chinh thuật lại các bài đấu tranh tư tưởng thì đồng chí Trường Chinh có nhắc nhở về mấy bài phê phán đó, đại ý như sau: các đồng chí phê bình cũng là phải thôi; nhưng cũng như một cây tre, vin xuống vừa phải thì sức bật của nó sẽ lớn, nhưng vin mạnh quá thì nó gẫy. Tôi hiểu ý đồng chí Trường Chinh nói là cần phải đấu tranh tư tưởng nhưng đừng nặng lời quá vì lúc bấy giờ chúng ta đang cần đoàn kết để kháng chiến chống Pháp, mặc dầu đoàn kết không có nghiã là thủ tiêu đấu tranh.” (Hoàng Trung Thông, bđd, trang 187).

Cuộc đấu tranh tư tưởng ở Khu Tư, sau Nguyễn Mạnh Tường, đến Trương Tửu, càng mãnh liệt hơn.

Kỳ tới : Nguyễn Mạnh Tường, từ 1954 đến 1997.

Sáng Lập Đảng

Nguyễn Thái Học người Sáng Lập Việt Nam Quốc Dân Đảng

Tìm Bài Theo Tháng

Tự Điển Hỏi Ngã Tiếng Việt