Những danh từ ngoại giao của nhà nước Cộng Sản Việt Nam hiện nay
Những danh từ dùng trong văn chương Việt Nam từ khi có chế độ Cộng Sản nắm quyền bị hợp thức hoá một cách rất “chói tai, gai mắt”.. Họ dùng chữ một cách máy móc không được thông thoáng theo văn chương. Đơn cử một chữ “khẩn trương” – Chữ này có trong danh từ của tự điển tiếng Việt nhưng nó dùng ở trường hợp nào cho đúng. Ví dụ “lệnh hành quân khẩn trương” hay “ban hành thiết quân luật khẩn trương” nghe có vẻ có lý. Chứ dùng “ăn khẩn trương lên nhé” có vẻ buồn cười, thay vì “ăn nhanh lên” thì nhẹ nhàng và văn vẻ hơn, hoặc tệ hơn nữa “anh cưới em khẩn trương” thì hết ý…. Bài này không bàn đến ngôn ngữ trước và sau chế độ XHCN. Nhưng những danh từ ngoại giao mà nay chế độ Cộng Sản cũng thay đổi, chúng ta cần tìm hiểu để thấy tương quan ngoại giao của nhà nước Cộng Sản Việt Nam với thế giới như thế nào? Qua những tìm hiểu thì những nhà ngoại giao của nhà nước Cộng Sản Việt Nam dường như đang lạm dụng khái niệm 2 chữ “chiến lược”, áp dụng nó cho những mối quan hệ mà trên thực tế chưa đạt tới mức đó.
Những danh từ ngoại giao mà nhà nước Cộng Sản Việt Nam đang dùng chia làm 5 thứ bậc:
– Đối tác chiến lược toàn diện (comprehensively strategic partnership),
– Đối tác chiến lược (strategic partnership),
– Đối tác toàn diện (comprehensive partnership),
– Đối tác chiến lược lãnh vực (Partnership in the Filed),
– Quan hệ đặc biệt (Special relationship), [Đọc tiếp]