Toàn văn tiếng Việt Hiệp Ước Thương Mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP): Chương 6&7

Hiệp Định TPP gồm có 30 chương, sau đây là Chương 6 & 7 (các chương sau sẽ được đăng kế tiếp)

CHƯƠNG 6

BIỆN PHÁP  PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI

Mục A: Biện pháp tự vệ

Điều 6.1: Giải thích từ ngữ

Trong phạm vi của Mục này:

ngành công nghiệp trong nước là, đối với một hàng hóa nhập khẩu, các nhà sản xuất hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp hoạt động trong lãnh thổ của một Bên, hoặc các nhà sản xuất hợp tác sản xuất các loại hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp chiếm một phần lớn trong tổng sản lượng nội địa của hàng hóa đó;

thiệt hại nghiêm trọng là sự suy giảm toàn diện đáng kể về vị thế của một ngành công nghiệp trong nước;

nguy cơ thiệt hại nghiêm trọng là thiệt hại nghiêm trọng sắp xảy ra một cách rõ ràng dựa trên thực tế và không chỉ đơn thuần dựa trên một tuyên bố, phỏng đoán, hoặc khả năng;

giai đoạn chuyển tiếp đối với một mặt hàng cụ thể là giai đoạn ba năm bắt đầu từ ngày có hiệu lực của Hiệp định này, trừ trường hợp việc xóa bỏ thuế quan đối với mặt hàng đó trong một khoảng thời gian dài hơn, khi đó giai đoạn chuyển tiếp là giai đoạn xóa bỏ thuế quan đã được định trước cho mặt hàng đó; và

biện pháp tự vệ chuyển tiếp là biện pháp mô tả trong Điều 6.3.2 (Thực hiện biện pháp tự vệ chuyển tiếp)

Điều 6.2: Biện pháp tự vệ toàn cầu

  1. Hiệp định này không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các Bên theo Điều XIX của GATT 1994 và Hiệp định Tự vệ.
  2. Trừ trường hợp quy định tại khoản 3, Hiệp định này không trao quyền hay áp đặt nghĩa vụ cho các Bên liên quan đối với các biện pháp được thực hiện theo Điều XIX của GATT 1994 và Hiệp định Tự vệ.
  3. Một Bên tiến hành một quy trình điều tra tự vệ phải cung cấp cho các Bên khác một bản điện tử của thông báo cho Ủy ban WTO về Biện pháp tự vệ theo Điều 12.1(a) của Hiệp định Tự vệ.
  4. Không bên nào được áp dụng hoặc duy trì biện pháp tự vệ quy định tại Chương này đối với sản phẩm bất kỳ nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan được Bên đó ban hành theo Hiệp định này. Bên áp dụng biện pháp tự vệ theo Điều XIX của GATT 1994 và Hiệp định Tự vệ có thể loại trừ hàng hóa có xuất xứ nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan do mình ban hành theo Hiệp định này và Appendix A của Biểu thuế của mình tại Phụ lục 2-D (Xóa bỏ thuế quan) ra khỏi biện pháp tự vệ, nếu hàng hóa nhập khẩu đó không gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc không có nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng.
  5. Không Bên nào được áp dụng hoặc duy trì nhiều hơn một trong số các biện pháp sau đối với cùng một mặt hàng tại cùng một thời điểm:

(a) một biện pháp tự vệ chuyển tiếp theo Chương này;

(b) một biện pháp tự vệ theo Điều XIX của GATT 1994 và Hiệp định Tự vệ;

(c) một biện pháp tự vệ quy định tại Appendix B của Biểu thuế tại Phụ lục 2-D (Xóa bỏ thuế quan); hoặc

(d) một hành động khẩn cấp theo Chương 4 (Dệt may).

Điều 6.3: Áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp

  1. Một Bên chỉ được áp dụng một biện pháp tự vệ chuyển tiếp mô tả trong khoản 2 trong giai đoạn chuyển tiếp, nếu việc giảm hoặc xóa bỏ thuế quan theo quy định của Hiệp định này dẫn đến:

(a) số lượng nhập khẩu một mặt hàng có xuất xứ của một Bên khác đang được nhập khẩu vào lãnh thổ Bên mình tăng lên và gây ra hoặc có nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp trong nước sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp; hoặc

(b) số lượng nhập khẩu một mặt hàng có xuất xứ của hai hoặc nhiều Bên vào lãnh thổ của Bên mình tăng lên và gây ra hoặc có nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp trong nước sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp, với điều kiện Bên áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp có thể chứng minh được rằng, đối với hàng nhập khẩu từ mỗi Bên bị áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp, số lượng nhập khẩu hàng hóa có xuất xứ đó từ mỗi Bên đã tăng lên từ ngày Hiệp định này có hiệu lực đối với các Bên đó.

  1. Nếu các điều kiện tại khoản 1 được thỏa mãn, Bên đó có thể thực hiện các biện pháp sau trong chừng mực cần thiết để ngăn chặn hoặc khắc phục tổn hại nghiêm trọng và để tạo điều kiện cho việc điều chỉnh:

(a) tạm ngưng giảm thuế đối với mặt hàng đó theo Hiệp định này; hoặc

(b) tăng thuế suất đối với hàng hóa nhưng không được vượt quá mức nào trong các mức sau:

(i) thuế suất tối huệ quốc có hiệu lực tại thời điểm mà biện pháp được áp dụng; và

(ii) thuế suất tối huệ quốc có hiệu lực vào ngày liền trước ngày Hiệp định này có hiệu lực đối với bên đó.

Các bên hiểu rằng hạn ngạch thuế quan và hạn chế về số lượng không phải là một  biện pháp tự vệ chuyển tiếp được cho phép.

Điều 6.4: Tiêu chuẩn cho biện pháp tự vệ chuyển tiếp

  1. Một Bên chỉ được duy trì một biện pháp tự vệ chuyển tiếp trong một khoảng thời gian cần thiết để ngăn chặn hoặc khắc phục thiệt hại nghiêm trọng và tạo điều kiện cho việc điều chỉnh.
  2. Khoảng thời gian này không được quá hai năm và chỉ được gia hạn thêm tối đa một năm nếu cơ quan có thẩm quyền của Bên áp dụng biện pháp xác định rằng biện pháp tự vệ chuyển tiếp này vẫn cần thiết để ngăn chặn hoặc khắc phục thiệt hại nghiêm trọng và tạo điều kiện cho việc điều chỉnh, phù hợp với các thủ tục nêu tại Điều 6.5 (Thủ tục điều tra và Yêu cầu về minh bạch).
  3. Không Bên nào được duy trì một biện pháp tự vệ chuyển tiếp sau khi giai đoạn chuyển tiếp kết thúc.
  4. Nhằm tạo điều kiện cho việc điều chỉnh trong trường hợp thời hạn dự kiến ​​của một biện pháp tự vệ chuyển tiếp kéo dài trên một năm, Bên áp dụng biện pháp phải dần dần nới lỏng biện pháp theo từng giai đoạn trong thời gian áp dụng.
  5. Khi chấp dứt một biện pháp tự vệ chuyển tiếp, Bên áp dụng biện pháp phải áp dụng thuế suất xác định trong Biểu thuế của mình tại Phụ lục 2-D (Xóa bỏ thuế quan) như thể Bên đó chưa từng áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp .
  6. Không Bên nào được áp dụng một biện pháp tự vệ chuyển tiếp nhiều lần đối với cùng một mặt hàng.

Điều 6.5: Thủ tục điều tra và yêu cầu minh bạch

  1. Một Bên chỉ được áp dụng một biện pháp tự vệ chuyển tiếp sau một cuộc điều tra do cơ quan có thẩm quyền của Bên mình thực hiện theo Điều 3 và Điều 4.2 (c) của Hiệp định Tự vệ. Vì vậy, Điều 3 và Điều 4.2(c) của Hiệp định Tự vệ được tích hợp vào và trở thành một phần của Hiệp định này, với những sửa đổi.
  2. Trong quá trình điều tra nêu trong đoạn 1, Bên đó phải thực hiện theo các yêu cầu của Điều 4.2(a) và Điều 4.2(b) của Hiệp định Tự vệ. Vì vậy, Điều 4.2(a) và Điều 4.2(b) của Hiệp định Tự vệ được tích hợp vào và trở thành một phần của Hiệp định này, với những sửa đổi.

Điều 6.6: Thông báo và tham vấn

  1. Một Bên phải thông báo kịp thời cho các Bên khác bằng văn bản nếu Bên đó:

(a) tiến hành một cuộc điều tra về biện pháp tự vệ chuyển tiếp theo Chương này;

(b) ra kết luận về thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng do gia tăng nhập khẩu theo quy định tại Điều 6.3 (Áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp);

(c) quyết định áp dụng hoặc gia hạn một biện pháp tự vệ chuyển tiếp; và

(d) quyết định điều chỉnh một biện pháp tự vệ chuyển tiếp được thực hiện trước đó.

  1. Một Bên phải cung cấp cho các Bên khác một bản sao của phiên bản công khai của báo cáo do các cơ quan có thẩm quyền của mình lập theo yêu cầu tại Điều 6.5.1 (Thủ tục điều tra và yêu cầu minh bạch).
  2. Khi một Bên lập một thông báo về việc Bên đó áp dụng hoặc gia hạn một biện pháp tự vệ chuyển tiếp theo khoản 1(c), trong thông báo phải có:

(a) bằng chứng của thiệt hại nghiêm trọng  hoặc nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng từ việc gia tăng nhập khẩu một loại hàng hóa có xuất xứ của một hoặc nhiều Bên do giảm hoặc xóa bỏ thuế quan theo quy định của Hiệp định;

(b) mô tả chính xác về hàng hóa có xuất xứ bị áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp, bao gồm mã số HS của nhóm và phân nhóm của hàng hóa đó mà Biểu thuế cam kết tại Phụ lục 2-D (Xóa bỏ thuế quan) sử dụng;

(c) mô tả chính xác về biện pháp tự vệ chuyển tiếp;

(d) ngày áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp, thời hạn dự kiến (nếu có) và lộ trình nới lỏng dần biện pháp này; và

(e) bằng chứng cho thấy ngành công nghiệp trong nước có liên quan đang điều chỉnh trong trường hợp gia hạn biện pháp tự vệ chuyển tiếp.

  1. Theo yêu cầu của Bên có hàng hóa là đối tượng của một vụ kiện liên quan đến biện pháp tự vệ chuyển tiếp theo Chương này, Bên tiến hành tố tụng sẽ tiến hành tham vấn với Bên yêu cầu nhằm xem xét một thông báo theo khoản 1 hoặc thông báo công khai hoặc báo cáo do cơ quan có thẩm quyền điều tra ban hành theo thủ tục tố tụng.

Điều 6.7: Bồi thường

  1. Sau khi tham vấn với từng Bên có hàng hóa bị áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp, Bên áp dụng biện pháp phải cung cấp bồi thường tự do hóa thương mại theo thỏa thuận song phương dưới hình thức thuế suất ưu đãi có các tác động thương mại tương đương với giá trị của các khoản thuế bổ sung được cho là kết quả của biện pháp tự vệ chuyển tiếp. Bên đó phải sẵn sàng tham vấn trong vòng 30 ngày kể từ ngày áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp.
  2. Nếu các cuộc tham vấn theo khoản 1 không đem lại một thỏa thuận về bồi thường tự do hóa thương mại trong vòng 30 ngày, Bên có hàng hóa bị áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp có quyền đình chỉ áp dụng thuế suất ưu đãi tương đương đối với thương mại với Bên áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp.
  3. Bên có hàng hóa bị áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp phải thông báo cho Bên áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp bằng văn bản ít nhất 30 ngày trước ngày đình chỉ áp dụng thuế suất ưu đãi theo khoản 2.
  4. Nghĩa vụ bồi thường theo khoản 1 và quyền đình chỉ áp dụng thuế suất ưu đãi theo khoản 2 chấm dứt khi biện pháp tự vệ chuyển tiếp chấm dứt.

Phần B: Thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp

Điều 6.8: Thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp

  1. Mỗi Bên duy trì quyền và nghĩa vụ của mình theo Điều VI của GATT 1994, Hiệp định AD và Hiệp định SCM.
  2. Hiệp định này không trao quyền hay áp đặt nghĩa vụ đối với các Bên liên quan đến thủ tục tố tụng hoặc các biện pháp được thực hiện theo Điều VI của GATT 1994, Hiệp định AD hoặc Hiệp định SCM.
  3. Không Bên nào được viện đến giải quyết tranh chấp theo Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) cho các vấn đề phát sinh theo mục này hoặc Phụ lục 6-A (Hoạt động liên quan đến tố tụng về thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp).

Điều 6-A: Hoạt động liên quan đến thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp

Các Bên thừa nhận, tại Điều 6.8 (Thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp), các quyền của các Bên áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại phù hợp với Điều VI của GATT 1994, Hiệp định AD và Hiệp định SCM, các bên công nhận các hoạt động sau1 có mục đích thúc đẩy các mục tiêu minh bạch và đúng thủ tục tố tụng thương mại:

(a) Khi cơ quan điều tra của một Bên nhận được đơn hợp lệ về thuế chống bán phá giá hoặc thuế chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu từ một Bên khác, và không muộn hơn bảy ngày trước khi tiến hành điều tra, Bên đó phải thông báo cho Bên kia bằng văn bản về việc đã nhận được đơn.

(b) Trong một vụ việc tố tụng bất kỳ mà cơ quan điều tra quyết định tiến hành xác minh thông tin do một người cung cấp thông tin 2 và thích hợp cho việc tính toán biên thuế chống bán phá giá hoặc mức trợ cấp, các cơ quan điều tra phải kịp thời thông báo cho mỗi người cung cấp thông tin về ý định của mình, và:

(i) báo cho mỗi người cung cấp thông tin trước ít nhất 10 ngày làm việc về những ngày mà các cơ quan điều tra dự kiến tiến hành xác minh trực tiếp thông tin;

(ii) ít nhất năm ngày làm việc trước ngày xác minh trực tiếp, cung cấp cho người cung cấp thông tin một tài liệu trong có các chủ đề người cung cấp thông tin cần chuẩn bị để trả lời trong quá trình xác minh và mô tả các loại tài liệu hỗ trợ cần thẩm định; và

(iii) sau khi hoàn thành xác minh trực tiếp, theo quy định về bảo vệ thông tin mật3, lập một báo cáo bằng văn bản mô tả các phương pháp và thủ tục xác minh được áp dụng, mức độ xác thực của thông tin được cung cấp theo các tài liệu được thẩm định trong quá trình xác minh.    Báo cáo phải được công khai nhằm đảm bảo các bên quan tâm có đủ thời gian để bảo vệ lợi ích của mình.

(c) các cơ quan điều tra của một Bên phải lưu trữ một tập tin công khai cho mỗi cuộc điều tra và thẩm định, trong đó có:

(i) tất cả các tài liệu không bí mật là một phần của hồ sơ điều tra hoặc  thẩm định; và

(ii)  bản tóm tắt công khai của các thông tin bí mật chứa trong các hồ sơ của mỗi cuộc điều tra hoặc thẩm định, miễn là có thể đảm bảo thông tin bí mật không bị tiết lộ. Cơ quan điều tra có thể tổng hợp các thông tin riêng lẻ không bắt buộc phải tóm tắt.

Các tập tin công khai và một danh sách của tất cả các tài liệu được chứa trong hồ sơ điều tra hoặc rà soát phải sẵn sàng được xuất trình để kiểm tra và sao chép trong giờ làm việc bình thường của cơ quan điều tra và có thể tải về bản điện tử4.

(d) Trong trường hợp một biện pháp về thuế chống bán phá giá hoặc thuế chống trợ cấp có liên quan đến hàng hóa nhập khẩu từ một Bên, nếu cơ quan điều tra của Bên đó xác định rằng phản hồi yêu cầu cung cấp thông tin không thỏa đáng, cơ quan điều tra sẽ thông báo về việc thông tin chưa đầy đủ cho bên liên quan đã nộp phản hồi và tạo điều kiện cho bên liên quan đó điều chỉnh hoặc giải trình trong một khoảng thời gian cần thiết để hoàn thành biện pháp về thuế chống bán phá giá hoặc thuế chống trợ cấp.  Nếu bên liên quan cung cấp thêm thông tin và cơ quan điều tra thấy vẫn chưa thỏa đáng hoặc thông tin không được cung cấp trong thời hạn quy định, và nếu cơ quan điều tra bỏ qua tất cả hoặc một phần phản hồi ban đầu và các phản hồi tiếp theo, cơ quan điều tra phải giải thích lý do bỏ qua các thông tin đó trong quyết định hoặc tài liệu khác.

(e) Trước khi ra quyết định cuối cùng, cơ quan điều tra phải thông báo cho tất cả các bên quan tâm về các dữ kiện thiết yếu là cơ sở cho việc ra quyết định về việc có áp dụng các biện pháp dứt khoát hay không. Với điều kiện bảo vệ thông tin bí mật, cơ quan điều tra có thể sử dụng mọi phương tiện hợp lý để  công bố các dữ kiện  thiết yếu, trong đó bao gồm một báo cáo tóm tắt các dữ liệu trong các hồ sơ, dự thảo, quyết định sơ bộ hoặc một tài liệu kết hợp của các báo cáo hoặc quyết định, nhằm tạo điều kiện cho các bên quan tâm phản hồi về việc  công bố dữ kiện thiết yếu.

—————————————–

1 Những hoạt động trong Phụ lục này không bao gồm toàn bộ các hoạt động liên quan đến thủ tục tố tụng về thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp. Không được suy diễn từ việc đưa vào hoặc loại trừ một khía cạnh cụ thể của các thủ tục tố tụng trong danh sách này.

2 Trong phạm vi khoản này, “người cung cấp thông tin” là một nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu, một chính quyền hoặc cơ quan chính phủ (nếu có) được cơ quan điều tra của một Bên yêu cầu trả lời một bảng câu hỏi về thuế chống bán phá giá hoặc thuế chống trợ cấp.

3 Trong phạm vi của Phụ lục này, “thông tin mật” bao gồm các thông tin được cung cấp một cách bí mật và bí mật về bản chất, ví dụ, việc tiết lộ thông tin sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh đáng kể cho một đối thủ hoặc sẽ có ảnh hưởng bất lợi đáng kể đối với người cung cấp thông tin trực tiếp hoặc gián tiếp.

4 Chi phí cho các bản sao, nếu có, sẽ được giới hạn trong phạm vi chi phí của các dịch vụ được cung ứng.


 

CHƯƠNG 7

BIỆN PHÁP VỆ SINH VÀ KIỂM DỊCH

Điều 7.1: Giải thích từ ngữ

  1. Các định nghĩa trong Phụ lục A của Hiệp định SPS được đưa vào Chương này và sẽ là một phần của Chương này, với những sửa đổi.
  2. Ngoài ra, trong phạm vi Chương này:

cơ quan có thẩm quyền là một cơ quan chính phủ của mỗi Bên chịu trách nhiệm về các biện pháp và các vấn đề được đề cập trong chương này;

biện pháp khẩn cấp là một biện pháp vệ sinh hoặc kiểm dịch được áp dụng bởi một Bên nhập khẩu đối với một Bên khác để giải quyết một vấn đề cấp bách về bảo vệ sinh mạng hoặc sức khỏe con người, động vật hoặc thực vật phát sinh hoặc có nguy cơ phát sinh tại Bên áp dụng biện pháp;

kiểm tra nhập khẩu là một cuộc thanh tra, kiểm nghiệm, lấy mẫu, xem xét các tài liệu, thử nghiệm hoặc thủ thuật, bao gồm phòng thí nghiệm, cảm quan hoặc nhận dạng, thực hiện tại biên giới của một Bên nhập khẩu hoặc người đại diện Bên nhập khẩu để xác định xem một lô hàng có tuân thủ 1 các yêu cầu về vệ sinh và kiểm dịch của Bên nhập khẩu hay không;

chương trình nhập khẩu là chính sách vệ sinh hoặc kiểm dịch bắt buộc, các thủ tục hoặc yêu cầu của một Bên nhập khẩu điều chỉnh việc nhập khẩu hàng hóa;

cơ quan đại diện chính là cơ quan quản lý của một Bên có trách nhiệm thực hiện Chương này và điều phối sự tham gia của Bên đó trong các hoạt động của Ủy ban theo Điều 7.5 (Ủy ban về Biện pháp vệ sinh và kiểm dịch);

phân tích rủi ro là quá trình gồm ba thành phần: đánh giá rủi ro; quản lý rủi ro; và thông tin rủi ro;

thông tin rủi ro là việc trao đổi thông tin và ý kiến ​​liên quan đến các rủi ro và yếu tố nguy cơ giữa người giám định rủi ro, người quản lý rủi ro, người tiêu dùng và các bên liên quan khác; và

quản lý rủi ro là việc xem xét các chính sách thay thế sau khi có kết quả của đánh giá rủi ro và, nếu cần thiết, lựa chọn và thực hiện các tùy chọn kiểm soát thích hợp, bao gồm cả các biện pháp quản lý.

Điều 7.2: Mục tiêu

Mục tiêu của Chương này bao gồm:

(a) bảo vệ sinh mạng và sức khỏe con người, động vật hoặc thực vật trong lãnh thổ của các Bên trong khi vẫn tạo điều kiện và mở rộng thương mại bằng cách sử dụng đa dạng các phương tiện để giải quyết và tìm cách các vấn đề vệ sinh và kiểm dịch;

(b) củng cố và xây dựng về Hiệp định SPS;

(c) tăng cường thông tin, tham vấn và hợp tác giữa các Bên, đặc biệt là giữa các cơ quan có thẩm quyền của các Bên và các cơ quan đại diện chính;

(d) đảm bảo rằng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch được thực hiện bởi một Bên không gây ra những trở ngại không công bằng trong thương mại;

(e) tăng cường tính minh bạch và sự hiểu biết về việc áp dụng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch của mỗi Bên; và

(f) Khuyến khích xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn và khuyến nghị, và thúc đẩy các Bên việc thực hiện chúng .

Điều 7.3: Phạm vi áp dụng

  1. Chương này áp dụng cho tất cả các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch của một Bên mà có thể trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến thương mại giữa các Bên.
  2. Chương này không ngăn cản một Bên áp dụng hoặc duy trì các yêu cầu halal đối với thực phẩm và sản phẩm thực phẩm theo quy định của pháp luật Hồi giáo.

Điều 7.4: Quy định chung

  1. Các bên khẳng định quyền và nghĩa vụ của mình theo Hiệp định SPS.
  2. Hiệp định này không hạn chế quyền và nghĩa vụ của mỗi Bên theo Hiệp định SPS.

Điều 7.5: Ủy ban về Biện pháp vệ sinh và kiểm dịch

  1. Nhằm mục đích thực hiện Chương này, các Bên nhất trí thành lập Ủy ban về Biện pháp vệ sinh và kiểm dịch (sau đây gọi là Ủy ban) bao gồm cơ quan đại diện chính phủ của mỗi Bên chịu trách nhiệm về các vấn đề vệ sinh và kiểm dịch.
  2. Nhiệm vụ của Ủy ban bao gồm:

  (a) tăng cường việc thực hiện Chương này của từng Bên;

(b) xem xét các vấn đề chung về vệ sinh và kiểm dịch; và

(c) tăng cường thông tin và hợp tác về các vấn đề vệ sinh và kiểm dịch.

  1. Ủy ban:

(a) có trách nhiệm cung cấp một diễn đàn để nâng cao sự hiểu biết của các Bên về các vấn đề vệ sinh và kiểm dịch có liên quan đến việc thực hiện Hiệp định SPS và Chương này;

(b) có trách nhiệm cung cấp một diễn đàn để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch của mỗi Bên và quá trình quản lý liên quan đến các biện pháp đó;

(c) có trách nhiệm tăng cường trao đổi thông tin về việc thực hiện Chương;

(d) có trách nhiệm xác định các phương tiện thích hợp, trong đó có thể bao gồm các tổ công tác đột xuất, để thực hiện các nhiệm vụ cụ thể liên quan đến các chức năng của Ủy ban;

(e) có quyền xác định và phát triển các dự áp hợp tác và hỗ trợ kỹ thuật giữa các Bên về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch;

(f) có quyền đóng vai trò là một diễn đàn cho một Bên chia sẻ thông tin về một vấn đề vệ sinh hoặc kiểm dịch đã phát sinh giữa Bên đó và một hoặc các  Bên khác, với điều kiện các Bên liên quan đến vấn đề đã tìm cách để giải quyết thông qua thảo luận giữa các Bên đó; và

(g) có quyền tham khảo ý kiến ​​về các vấn đề và vị trí trong các cuộc họp của Ủy ban được thành lập theo Điều 12 của Hiệp định SPS (Ủy ban SPS của WTO), và các cuộc họp được tổ chức dưới sự bảo trợ của Ủy ban Codex, Tổ chức Thú y Thế giới và Công ước Bảo vệ thực vật quốc tế.

  1. Ủy ban sẽ ban hành các điều khoản tham chiếu của tại cuộc họp đầu tiên và có thể sửa đổi những điều khoản đó khi cần thiết.
  2. Ủy ban phải họp trong vòng một năm kể từ ngày có hiệu lực của Hiệp định này và sau đó mỗi năm một lần, trừ trường hợp các Bên có thoả thuận khác.

Điều 7.6: Các cơ quan có thẩm quyền và đầu mối liên lạc

Mỗi Bên phải cung cấp cho các Bên khác một mô tả bằng văn bản của trách nhiệm đối với vệ sinh và kiểm dịch của cơ quan có thẩm quyền của mình và các đầu mối liên lạc trong mỗi cơ quan, xác định cơ quan đại diện chính của mình trong vòng 60 ngày kể từ ngày có hiệu lực của Hiệp định này đối với bên đó . Mỗi Bên phải đảm bảo thông tin này được cập nhật.

Điều 7.7: Thích nghi theo điều kiện khu vực, bao gồm khu vực không có sâu bệnh và khu vực có tỷ lệ sâu bệnh thấp

  1. Các Bên thừa nhận rằng sự thích nghi theo điều kiện khu vực, bao gồm khu vực hóa, khoanh vùng và cách ly là một phương tiện quan trọng để tạo thuận lợi cho thương mại.
  2. Các Bên phải xem xét hướng dẫn có liên quan của Ủy ban SPS của WTO và các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn và khuyến nghị.
  3. Các Bên có thể hợp tác trong việc công nhận các khu vực không có sâu bệnh, và các khu vực có tỷ lệ sâu – bệnh thấp với mục tiêu đạt được sự tin tưởng trong các thủ tục tiếp theo do mỗi Bên thực hiện nhằm công nhận các khu vực không có sâu bệnh và các khu vực có tỷ lệ sâu bệnh thấp.
  4. Khi một Bên nhập khẩu nhận được một yêu cầu xác định điều kiện khu vực từ một Bên xuất khẩu và xác định rằng các thông tin được cung cấp bởi Bên xuất khẩu là đầy đủ, Bên nhập khẩu phải tiến hành thẩm định trong một thời hạn hợp lý.
  5. Khi một Bên nhập khẩu bắt đầu thẩm định một yêu cầu xác định điều kiện khu vực theo khoản 4, Bên đó phải kịp thời giải thích quá trình xác định các điều kiện khu vực của mình theo yêu cầu của Bên xuất khẩu.
  6. Theo yêu cầu của Bên xuất khẩu, Bên nhập khẩu có trách nhiệm thông báo cho Bên xuất khẩu về tình hình thẩm định yêu cầu của Bên xuất khẩu về việc xác định điều kiện khu vực.
  7. Khi một Bên nhập khẩu thông qua một biện pháp trong đó công nhận điều kiện khu vực cụ thể của một Bên xuất khẩu, Bên nhập khẩu phải thông báo biện pháp đó cho Bên xuất khẩu bằng văn bản và thực hiện biện pháp đó trong một thời hạn hợp lý.
  8. Các Bên nhập khẩu và Bên xuất khẩu liên quan trong việc xác định cụ thể cũng có thể quyết định trước các biện pháp quản lý rủi ro sẽ được áp dụng đối với thương mại giữa các Bên đó trong các trường hợp có thay đổi về tình hình.
  9. Các bên liên quan đến việc quyết định công nhận điều kiện khu vực được khuyến khích báo cáo kết quả cho Ủy ban nếu đạt được một thỏa thuận chung.
  10. Nếu việc đánh giá bằng chứng được cung cấp bởi Bên xuất khẩu không dẫn đến một quyết định công nhận khu vực không có sâu bệnh, hoặc khu vực có tỷ lệ sâu bệnh thấp, Bên nhập khẩu phải thông báo cho Bên xuất khẩu lý do cho quyết định của mình.
  11. Nếu có một sự cố dẫn đến việc Bên nhập khẩu sửa đổi hoặc thu hồi quyết định công nhận điều kiện khu vực, theo yêu cầu của Bên xuất khẩu, các Bên liên quan phải hợp tác để đánh giá xem quyết định có thể được cấp lại hay không.

Điều 7.8: Tương đương

  1. Các Bên thừa nhận rằng việc công nhận sự tương đương các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch là một phương tiện quan trọng để tạo thuận lợi cho thương mại. Tiếp theo Điều 4 của Hiệp định SPS, các Bên phải áp dụng tương đương đối với một nhóm các biện pháp hoặc trên cơ sở toàn hệ thống ở mức độ có thể và phù hợp. Khi xác định sự tương đương của một biện pháp vệ sinh và kiểm dịch cụ thể, nhóm các biện pháp hoặc trên cơ sở toàn hệ thống, mỗi Bên phải xem xét các hướng dẫn có liên quan của Ủy ban SPS của WTO và các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn và khuyến nghị.
  2. Theo yêu cầu của Bên xuất khẩu, Bên nhập khẩu có trách nhiệm giải thích mục tiêu và lý do của biện pháp vệ sinh kiểm dịch của mình và xác định rõ các rủi ro thuộc mục tiêu giải quyết của biện pháp vệ sinh hoặc kiểm dịch.
  3. Khi một Bên nhập khẩu nhận được một yêu cầu đánh giá tương đương và xác định rằng các thông tin được cung cấp bởi Bên xuất khẩu là đầy đủ, Bên nhập khẩu phải tiến hành đánh giá tương đương trong một thời hạn hợp lý.
  4. Khi bắt đầu tiến hành đánh giá tương đương, Bên nhập khẩu phải, theo yêu cầu của Bên xuất khẩu, kịp thời giải thích quá trình tương đương và kế hoạch thực hiện việc xác định tương đương và, nếu được công nhận tương đương, kế hoạch tạo điều kiện cho thương mại.
  5. Khi xác định sự tương đương của một biện pháp vệ sinh và kiểm dịch, Bên nhập khẩu phải xem xét các kiến ​​thức, thông tin sẵn có và kinh nghiệm liên quan cũng thẩm quyền quản lý của Bên xuất khẩu.
  6. Bên nhập khẩu phải công nhận sự tương đương của một biện pháp vệ sinh hoặc kiểm dịch nếu Bên xuất khẩu chứng minh một cách khách quan cho Bên nhập khẩu rằng biện pháp của Bên xuất khẩu:

(a) đạt được cùng mức độ bảo vệ như biện pháp của Bên nhập khẩu; hoặc

(b) có cùng tác dụng trong việc đạt được các mục tiêu như biện pháp của Bên nhập khẩu.2

  1. Khi một Bên nhập khẩu thông qua một biện pháp trong đó công nhận sự tương đương của một biện pháp vệ sinh và kiểm dịch cụ thể của Bên xuất khẩu, hoặc nhóm biện pháp hoặc biện pháp trên cơ sở toàn hệ thống, Bên nhập khẩu phải thông báo biện pháp mà mình đã thông qua cho Bên xuất khẩu bằng văn bản và thực hiện biện pháp đó trong một thời hạn hợp lý.
  2. Các bên liên quan đến việc xác định tương đương dẫn đến công nhận tương đương được khuyến khích báo cáo kết quả cho Ủy ban nếu đạt được một thỏa thuận chung.
  3. Nếu Bên nhập khẩu không công nhận tương đương sau khi xác định, Bên nhập khẩu phải cung cấp cho Bên xuất khẩu lý do cho quyết định của mình

Điều 7.9: Phân tích rủi ro và khoa học

  1. Các Bên thừa nhận tầm quan trọng của việc đảm bảo rằng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch tương ứng của mình phải được dựa trên các nguyên tắc khoa học.
  2. Mỗi Bên bảo đảm rằng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch của mình hoặc tuân thủ với các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn hay khuyến nghị có liên quan hoặc, trong trường hợp không tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn hay khuyến nghị, được dựa trên bằng chứng khoa học khách quan và có tài liệu dẫn chứng có liên quan một cách hợp lý đến các biện pháp, đồng thời thừa nhận nghĩa vụ của các Bên đối với việc đánh giá rủi ro theo Điều 5 của Hiệp định SPS.3
  3. Thừa nhận nhận quyền và nghĩa vụ của các Bên theo quy định có liên quan của Hiệp định SPS, Chương này không ngăn cản một Bên:

(a) thiết lập một mức độ bảo vệ mà Bên đó xác định là phù hợp;

(b) ban hành hoặc duy trì một thủ tục chấp thuận trong đó yêu cầu thực hiện một phân tích rủi ro trước khi Bên đó cho phép lưu hành một sản phẩm trong thị trường của mình; hoặc

(c) thông qua hoặc duy trì một biện pháp vệ sinh kiểm dịch tạm thời.

  1. Mỗi Bên có trách nhiệm:

(a) đảm bảo rằng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch của mình không có phân biệt đối xử giữa các Bên có điều kiện giống hệt hoặc tương tự nhau một cách tùy tiện hoặc vô căn cứ, bao gồm cả giữa lãnh thổ của mình và lãnh thổ của các Bên khác; và

(b) tiến hành phân tích rủi ro có ghi biên bản nhằm tạo điều kiện người quan tâm và các Bên khác đóng góp ý kiến theo cách do Bên đó xác định4.

  1. Mỗi Bên phải bảo đảm rằng mọi đánh giá rủi ro Bên mình thực hiện đều phù hợp với hoàn cảnh của rủi ro cần giải quyết và đã có tính đến các dữ liệu khoa học có liên quan sẵn có, bao gồm các thông tin định tính và định lượng.
  2. Khi tiến hành phân tích rủi ro, mỗi Bên phải:

(a) xem xét hướng dẫn có liên quan của Ủy ban SPS của WTO và các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn và khuyến nghị;

(b) xem xét các lựa chọn quản lý rủi ro không có hạn chế đối với thương mại quá mức cần thiết, bao gồm cả việc tạo thuận lợi thương mại bằng cách không thực hiện bất kỳ biện pháp nào, [thêm dấu phẩy] nhằm đạt được mức độ bảo vệ mà Bên đó xác định là phù hợp; và

(c) quyết định một tùy chọn quản lý rủi ro không có hạn chế đối với thương mại quá mức cần thiết để đạt được mục tiêu vệ sinh hoặc kiểm dịch, có tính đến tính khả thi về kỹ thuật và kinh tế.

  1. Nếu Bên nhập khẩu yêu cầu thực hiện một phân tích rủi ro để đánh giá một yêu cầu từ một Bên xuất khẩu để cho phép nhập khẩu một mặt hàng của Bên xuất khẩu đó, Bên nhập khẩu phải giải thích về những thông tin cần thiết cho việc đánh giá rủi ro theo yêu cầu của Bên xuất khẩu. Khi nhận được thông tin cần thiết từ Bên xuất khẩu, Bên nhập khẩu phải tạo điều kiện cho việc đánh giá yêu cầu cấp phép bằng cách lên lịch làm việc theo yêu cầu này phù hợp với các thủ tục, chính sách, nguồn lực, và luật pháp và quy định của Bên nhập khẩu.
  2. Theo yêu cầu của Bên xuất khẩu, Bên nhập khẩu có trách nhiệm thông báo cho Bên xuất khẩu tiến độ xử lý yêu cầu phân tích rủi ro và các trì hoãn có thể có.
  3. Nếu một Bên nhập khẩu, sau khi có kết quả phân tích rủi ro, thông qua một biện pháp vệ sinh hoặc kiểm dịch trong đó cho phép bắt đầu hoặc tiếp tục hoạt động thương mại, Bên nhập khẩu phải thực hiện biện pháp đó trong một thời hạn hợp lý.
  4. Bất kể quy định tại Điều 7.14 (Biện pháp khẩn cấp), không Bên nào phải ngừng việc nhập khẩu một mặt hàng từ một Bên khác chỉ vì lý do Bên nhập khẩu đang tiến hành thẩm định biện pháp vệ sinh kiểm dịch của mình, [thêm dấu phẩy] nếu Bên nhập khẩu đã cho phép nhập khẩu mặt hàng đó của Bên kia khi bắt đầu thẩm định.

Điều 7.10: Kiểm toán 6

  1. Để xác định khả năng của Bên xuất khẩu cung cấp đảm bảo được yêu cầu và đáp ứng các biện pháp vệ sinh kiểm dịch của Bên nhập khẩu, mỗi Bên nhập khẩu có quyền, theo Điều này, kiểm toán các cơ quan có thẩm quyền và hệ thống kiểm tra liên quan hoặc được chỉ định của Bên xuất khẩu. Việc kiểm toán có thể bao gồm đánh giá các chương trình kiểm soát các cơ quan có thẩm quyền, bao gồm: nếu thích hợp, thẩm định chương trình kiểm tra và kiểm toán, và kiểm tra thực tế tại cơ sở.
  2. Việc kiểm toán phải dựa trên các hệ thống và được thiết kế để kiểm tra tính hiệu quả các cơ quan có thẩm quyền của Bên xuất khẩu.
  3. Khi thực hiện kiểm toán, một Bên phải xem xét hướng dẫn có liên quan của Ủy ban SPS của WTO và các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn và khuyến nghị.
  4. Trước khi bắt đầu kiểm toán, Bên nhập khẩu và Bên xuất khẩu có liên quan phải thảo luận về lý do và quyết định: mục tiêu và phạm vi kiểm toán; các tiêu chuẩn hoặc các yêu cầu để đánh giá Bên xuất khẩu; trình tự và thủ tục để tiến hành kiểm toán.
  5. Bên kiểm toán tạo điều kiện cho Bên bị kiểm toán đưa ra ý kiến về những kết quả kiểm toán và xem xét các ý kiến này trước khi Bên kiểm toán đưa ra kết luận và thực hiện một hành động bất kỳ. Bên kiểm toán phải cung cấp bản báo cáo trong đó có nêu kết luận của mình bằng văn bản cho Bên bị kiểm toán trong một thời hạn hợp lý.
  6. Một quyết định hoặc hành động của Bên kiểm toán là kết quả của cuộc kiểm toán phải có chứng cứ và dữ liệu khách quan có thể được xác minh, có tính đến kiến ​​thức, kinh nghiệm, và mức độ tin cậy của Bên kiểm toán đối với Bên bị kiểm toán . Chứng cứ và dữ liệu khách quan này phải được cung cấp cho Bên bị kiểm toán theo yêu cầu.
  7. Các chi phí phát sinh do Bên kiểm toán sẽ do Bên kiểm toán chi trả, trừ trường hợp hai Bên có quyết định khác.
  8. Bên kiểm toán và Bên bị kiểm toán phải bảo đảm rằng các thủ tục được thực hiện để ngăn chặn việc tiết lộ thông tin bí mật có được trong quá trình kiểm toán.

Điều 7.11: Kiểm tra nhập khẩu

  1. Mỗi Bên phải bảo đảm rằng các chương trình nhập khẩu của mình được dựa trên các rủi ro liên quan đến nhập khẩu và kiểm tra nhập khẩu được thực hiện mà không có trì hoãn vô lý.7
  2. Một Bên phải cung cấp cho Bên khác, theo yêu cầu, thông tin về thủ tục nhập khẩu của mình và cơ sở để xác định bản chất và tần suất kiểm tra nhập khẩu, bao gồm các yếu tố mà Bên đó xem xét để xác định các rủi ro liên quan đến nhập khẩu.
  3. Một Bên có thể sửa đổi tần suất kiểm tra nhập khẩu của mình sau khi có kinh nghiệm từ việc kiểm tra nhập khẩu hoặc từ các hành động hoặc thảo luận quy định tại Chương này.
  4. Bên nhập khẩu phải cung cấp cho một Bên khác, theo yêu cầu, thông tin liên quan đến các phương pháp phân tích, kiểm soát chất lượng, thủ tục lấy mẫu và cơ sở Bên nhập khẩu sử dụng để thử nghiệm một hàng hóa. Bên nhập khẩu phải đảm bảo rằng mọi thử nghiệm đều được tiến hành theo các phương pháp thích hợp và được xác nhận trong một cơ sở hoạt động theo một chương trình đảm bảo chất lượng phù hợp với các tiêu chuẩn phòng thí nghiệm quốc tế. Bên nhập khẩu phải lưu giữ hồ sơ  giấy hoặc điện tử liên quan đến việc xác định, thu thập, lấy mẫu, vận chuyển và lưu trữ các mẫu thử nghiệm, và các phương pháp phân tích được sử dụng trên các mẫu thử nghiệm.
  5. Bên nhập khẩu phải đảm bảo rằng quyết định cuối cùng của mình đối với một phát hiện về sự không tuân thủ biện pháp vệ sinh kiểm dịch của Bên nhập khẩu được hạn chế ở mức độ hợp lý và cần thiết, và liên quan một cách hợp lý đến khoa học hiện có.
  6. Nếu một Bên nhập khẩu cấm hoặc hạn chế nhập khẩu một mặt hàng của một Bên trên cơ sở kiểm tra nhập khẩu có kết quả không đạt yêu cầu, Bên nhập khẩu phải thông báo về kết quả không đạt yêu cầu cho ít nhất một trong các đối tượng sau: nhà nhập khẩu hoặc đại lý của nhà nhập khẩu; nhà xuất khẩu; nhà sản xuất; hoặc Bên xuất khẩu.

7.Khi Bên nhập khẩu gửi một thông báo theo khoản 6, thông báo phải:  

(a) bao gồm:

(i) lý do cho việc cấm hoặc hạn chế;

(ii) cơ sở pháp lý cho các hành động hoặc cho phép thực hiện hành động; và

(iii) thông tin về tình trạng của hàng hóa bị ảnh hưởng và, nếu thích hợp, cách xử lý;

(b) thông báo phải được gửi theo luật pháp, quy định và yêu cầu của Bên đó càng sớm càng tốt và không quá bảy ngày 8 sau ngày ra quyết định cấm hoặc hạn chế, trừ trường hợp hàng hóa bị một cơ quan hải quan tịch thu; và

(c) nếu thông báo chưa được cung cấp thông qua một kênh khác thì phải được gửi bằng phương tiện điện tử, nếu khả thi.

  1. Trường hợp Bên nhập khẩu cấm hoặc hạn chế nhập khẩu một mặt hàng của một Bên trên cơ sở kết quả kiểm tra nhập khẩu không đạt yêu cầu, Bên nhập khẩu phải tạo điều kiện để thẩm định lại quyết định và xem xét các thông tin liên quan được cung cấp để hỗ trợ trong quá trình thẩm định. Yêu cầu thẩm định và thông tin cần được nộp cho Bên nhập khẩu trong một thời hạn hợp lý.9
  2. Nếu một Bên nhập khẩu xác định rằng một biện pháp vệ sinh kiểm dịch không được tuân thủ một cách đáng kể, kéo dài, hoặc lặp đi lặp lại, Bên nhập khẩu phải thông báo cho Bên xuất khẩu.
  3. Theo yêu cầu, Bên nhập khẩu phải cung cấp cho Bên xuất khẩu thông tin về hàng hoá từ các Bên xuất khẩu được xác định là không tuân thủ một biện pháp vệ sinh kiểm dịch của Bên nhập khẩu.

Điều 7.12: Chứng nhận

  1. Các Bên thừa nhận rằng đảm bảo đối với các yêu cầu vệ sinh hoặc kiểm dịch có thể được cung cấp dưới hình thức khác ngoài giấy chứng nhận, và các hệ thống khác nhau có thể có khả năng đáp ứng cùng một mục tiêu vệ sinh hoặc kiểm dịch thực vật.
  2. Nếu một Bên nhập khẩu yêu cầu chứng nhận cho hoạt động thương mại của một mặt hàng, Bên đó phải đảm bảo rằng yêu cầu chứng nhận chỉ được áp dụng trong phạm vi cần thiết để bảo vệ sinh mạng hoặc sức khỏe con người, động vật hoặc thực vật trong việc đáp ứng các mục tiêu vệ sinh hoặc kiểm dịch của mình.
  3. Khi áp dụng các yêu cầu chứng nhận, Bên nhập khẩu phải xem xét hướng dẫn có liên quan của Ủy ban SPS của WTO và các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn và khuyến nghị.
  4. Bên nhập khẩu phải hạn chế lời khai và các thông tin mình đòi hỏi trên giấy chứng nhận trong phạm vi các thông tin cần thiết có liên quan đến các mục tiêu vệ sinh hoặc kiểm dịch của Bên nhập khẩu.
  5. Bên nhập khẩu cần cung cấp cho Bên khác, theo yêu cầu, lý do cho các lời khai hoặc thông tin mà Bên nhập khẩu yêu cầu phải có trên một giấy chứng nhận.
  6. Các Bên có thể thỏa thuận làm việc cùng nhau để xây dựng các mẫu giấy chứng nhận đi kèm hàng hóa cụ thể được giao dịch giữa các Bên, xem xét hướng dẫn có liên quan của Ủy ban SPS của WTO và các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn và khuyến nghị.
  7. Các Bên cần thúc đẩy việc áp dụng cấp giấy chứng nhận điện tử và công nghệ khác để tạo thuận lợi cho thương mại.

Điều 7.13: Tính minh bạch 10

  1. Các Bên thừa nhận giá trị của việc chia sẻ thông tin liên tục về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch của mình, và việc tạo điều kiện cho những người quan tâm và các Bên khác đóng góp ý kiến về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch do mình đề xuất.
  2. Khi thực hiện Điều này, mỗi Bên phải xem xét hướng dẫn có liên quan của Ủy ban SPS của WTO và các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn và khuyến nghị.
  3. Một Bên phải sử dụng hệ thống nộp thông báo SPS của WTO để thông báo cho các Bên khác về biện pháp vệ sinh kiểm dịch được đề xuất có thể tác động đến thương mại của một Bên khác, bao gồm các biện pháp phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn hoặc khuyến nghị.
  4. Trừ trường hợp xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra các vấn đề cấp bách liên quan đến sinh mạng hoặc sức khỏe của con người, động vật hoặc thực vật, hoặc biện pháp có tính chất tạo thuận lợi thương mại, một Bên cần cho phép ít nhất 60 ngày để những người quan tâm và các Bên khác đóng góp ý kiến bằng văn bản về biện pháp đề xuất sau khi Bên đó thông báo theo Khoản 3. Nếu khả thi và phù hợp, thời hạn nên dài hơn 60 ngày. Bên đó phải xem xét các yêu cầu hợp lý về việc kéo dài thời hạn đóng góp ý kiến từ người quan tâm hoặc Bên khác. Bên đề xuất biện pháp phải phản hồi các ý kiến đóng góp ​​bằng văn bản của Bên khác một cách thích hợp theo yêu cầu.
  5. Các Bên phải công bố, bằng phương tiện điện tử trong một tạp chí chính thức hoặc trên một trang web, biện pháp vệ sinh kiểm dịch được đề xuất và thông báo theo khoản 3, các cơ sở pháp lý cho biện pháp, và các ý kiến ​​bằng văn bản hoặc một tóm tắt ý kiến bằng văn bản về biện pháp mà Bên mình nhận được từ công chúng.
  6. Nếu một Bên đề xuất một biện pháp vệ sinh và kiểm dịch không phù hợp với một tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn hay khuyến nghị, Bên đó phải cung cấp cho một Bên khác, theo yêu cầu, và trong phạm vi cho phép theo yêu cầu về bảo mật và quyền riêng tư trong pháp luật của mình, các tài liệu liên quan mà Bên đó xem xét trong quá trình xây dựng biện pháp được đề xuất, bao gồm tài liệu và bằng chứng khoa học khách quan và có tài liệu dẫn chứng liên quan một cách hợp lý đến biện pháp, như đánh giá rủi ro, các nghiên cứu liên quan và ý kiến ​​chuyên gia.
  7. Bên đề xuất thông qua một biện pháp vệ sinh kiểm dịch phải thảo luận với một Bên khác, theo yêu cầu và nếu thích hợp và khả thi, các quan ngại về mặt khoa học hoặc thương mại mà Bên kia có thể đưa ra đối với biện pháp được đề xuất và phương pháp thay thế sẵn có, ít hạn chế thương mại hơn để đạt được mục tiêu của biện pháp.
  8. Mỗi Bên phải công bố, tốt nhất bằng phương tiện điện tử, các thông báo về các biện pháp vệ sinh kiểm dịch chính thức trên một tạp chí chính thức hoặc trang web.
  9. Mỗi Bên phải thông báo cho các Bên khác về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch chính thức thông qua hệ thống nộp thông báo SPS của WTO. Mỗi Bên bảo đảm rằng các văn bản hoặc thông báo về một biện pháp vệ sinh và kiểm dịch chính thức có nêu rõ ngày có hiệu lực và các cơ sở pháp lý của biện pháp. Một Bên cũng có trách nhiệm thông báo cho một Bên khác, theo yêu cầu, và trong phạm vi cho phép theo yêu cầu về bảo mật và quyền riêng tư trong pháp luật của mình, các ý kiến ​​ quan trọng bằng văn bản và tài liệu liên quan được xem xét để hỗ trợ các biện pháp đó đã nhận được trong thời gian góp ý.
  10. Nếu một biện pháp vệ sinh kiểm dịch chính thức có nhiều thay đổi đáng kể so với biện pháp được đề xuất, một Bên cũng phải giải thích rõ trong thông báo về biện pháp vệ sinh kiểm dịch chính thức mà mình công bố các vấn đề sau:

 (a) các mục tiêu, lý do của biện pháp, và biện pháp phù hợp cho các mục tiêu và lý do đó như thế nào; và

(b) những thay đổi đáng kể so với biện pháp được đề xuất.

  1. Bên xuất khẩu phải thông báo cho Bên nhập khẩu thông qua các đầu mối liên lạc nêu tại Điều 7.6 (Cơ quan có thẩm quyền và đầu mối liên lạc) một cách kịp thời và thích hợp về:

(a) một rủi ro đáng kể về vệ sinh hoặc kiểm dịch (nếu có) liên quan đến việc xuất khẩu một mặt hàng từ lãnh thổ của mình;

(b) các tình huống khẩn cấp khi một sự thay đổi về tình trạng sức khỏe động vật hoặc thực vật trong lãnh thổ của Bên xuất khẩu có thể ảnh hưởng đến hoạt động thương mại hiện tại;

(c) các thay đổi đáng kể trong các trạng thái của một loại sâu hại hoặc bệnh được địa phương hóa;

(d) những phát hiện khoa học mới quan trọng có ảnh hưởng đến việc ban hành hoặc thay đổi quy định về an toàn thực phẩm, sâu bệnh; và

(e) những thay đổi đáng kể về an toàn thực phẩm, chính sách hoặc phương pháp quản lý, kiểm soát, hoặc loại trừ sâu bệnh có thể ảnh hưởng đến hoạt động thương mại hiện tại.

  1. Nếu khả thi và phù hợp, một Bên nên cho một thời hạn dài hơn sáu tháng từ ngày công bố một biện pháp vệ sinh hoặc kiểm dịch chính thức đến ngày biện pháp có hiệu lực, trừ trường hợp biện pháp này nhằm giải quyết một vấn đề cấp bách về bảo vệ sinh mạng hoặc sức khỏe của con người, động vật hoặc thực vật, hoặc biện pháp có tính chất tạo thuận lợi cho thương mại.
  2. Một Bên phải cung cấp cho Bên khác, theo yêu cầu, tất cả các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch liên quan đến việc nhập khẩu một mặt hàng vào lãnh thổ Bên đó.

Điều 7.14: Biện pháp khẩn cấp

  1. Nếu một Bên thông qua một biện pháp khẩn cấp cần thiết cho việc bảo vệ sinh mạng hoặc sức khỏe con người, động vật hoặc thực vật, Bên đó phải thông báo ngay cho các Bên khác về biện pháp đó thông qua cơ quan đại diện chính và các Đầu mối liên lạc có liên quan nêu tại Điều 7.6 (Cơ quan có thẩm quyền và đầu mối liên lạc). Bên thông qua biện pháp khẩn cấp phải xem xét mọi thông tin được các Bên khác cung cấp sau khi nhận được thông báo.
  2. Nếu một Bên thông qua một biện pháp khẩn cấp, Bên đó phải thẩm định các cơ sở khoa học của biện pháp đó trong vòng sáu tháng và công bố kết quả thẩm định cho những Bên có yêu cầu. Nếu biện pháp khẩn cấp được duy trì sau khi thẩm định vì lý do thông qua biện pháp đó vẫn còn, Bên thông qua biện pháp cần thẩm định biện pháp theo định kỳ.

Điều 7.15: Hợp tác

  1. Các Bên cần tìm kiếm cơ hội hợp tác và trao đổi thông tin về các vấn đề vệ sinh và kiểm dịch được quan tâm chung theo quy định tại Chương này. Những cơ hội có thể bao gồm các sáng kiến ​​tạo thuận lợi cho thương mại và hỗ trợ kỹ thuật. Các bên cần hợp tác để tạo thuận lợi cho việc thực hiện Chương này.
  2. Các Bên cần hợp tác và có thể cùng nhau xác định công việc liên quan đến các vấn đề vệ sinh và kiểm dịch với mục tiêu loại trừ những trở ngại không cần thiết đối với thương mại giữa các Bên.

Điều 7.16: Trao đổi thông tin

Một Bên có thể yêu cầu thông tin từ một Bên khác về một vấn đề phát sinh theo Chương này. Bên nhận được yêu cầu cung cấp thông tin phải nỗ lực để cung cấp các thông tin có sẵn cho Bên yêu cầu trong một thời hạn hợp lý, và nếu có thể, bằng phương tiện điện tử.

Điều 7.17: Hợp tác tham vấn kỹ thuật

  1. Nếu một Bên quan tâm đến một vấn đề bất kỳ phát sinh theo Chương này với một Bên khác, Bên đó phải nỗ lực giải quyết vấn đề này bằng cách áp dụng các thủ tục hành chính sẵn có của cơ quan có thẩm quyền của Bên kia. Nếu các Bên liên quan có sẵn các cơ chế song phương hoặc cơ chế khác để giải quyết vấn đề này, Bên đưa ra vấn đề phải nỗ lực giải quyết vấn đề thông qua những cơ chế đó nếu thấy thích hợp. Một Bên có thể thực hiện hợp tác tham vấn kỹ thuật quy định tại khoản 2 bất cứ lúc nào xét thấy các thủ tục hành chính, cơ chế song phương hoặc cơ chế khác sẽ không giải quyết được vấn đề.
  2. Một hoặc nhiều bên (bên yêu cầu) có thể tiến hành hợp tác tham vấn kỹ thuật với một Bên khác (Bên trả lời) để thảo luận về các vấn đề phát sinh theo Chương này mà Bên yêu cầu cho rằng có thể ảnh hưởng xấu đến thương mại của mình bằng cách gửi yêu cầu cho cơ quan đại diện chính của Bên trả lời. Yêu cầu phải được lập bằng văn bản và nêu rõ lý do yêu cầu, bao gồm mô tả mối quan tâm của Bên đó về vấn đề này, và những quy định của Chương này có liên quan đến vấn đề.
  3. Trừ trường hợp Bên yêu cầu và Bên trả lời (sau đây gọi là các Bên tham vấn) có thỏa thuận khác, Bên trả lời phải xác nhận yêu cầu bằng văn bản trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận yêu cầu.
  4. 4. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, các Bên tham vấn phải họp trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận Bên trả lời xác nhận yêu cầu thảo luận, với mục đích giải quyết vấn đề trong vòng 180 ngày kể từ ngày yêu cầu nếu có thể. Cuộc họp có thể diễn ra trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện điện tử.
  5. Các Bên tham vấn phải đảm bảo có sự tham gia phù hợp của các cơ quan quản lý và thương mại có liên quan trong các cuộc họp được tổ chức theo Điều này.
  6. Tất cả các thông tin trao đổi giữa các Bên tham vấn trong quá trình hợp tác tham vấn kỹ thuật cũng như tất cả các tài liệu phục vụ tham vấn phải được giữ bí mật trừ trường hợp các Bên tham vấn có thỏa thuận khác và không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của bất kỳ Bên nào theo Hiệp định này, Hiệp định WTO hoặc thoả thuận quốc tế khác mà Bên đó tham gia.
  7. 7. Bên yêu cầu có quyền dừng hợp tác tham vấn kỹ thuật theo Điều này và giải quyết tranh chấp theo Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) nếu:

(a) cuộc họp nêu tại khoản 4 không diễn ra trong vòng 37 ngày kể từ ngày yêu cầu, hoặc trong một khung thời gian khác do các bên tham vấn thoả thuận theo các khoản 3 và 4; hoặc

(b) cuộc họp nêu tại khoản 4 đã được tổ chức.

  1. Không Bên nào được viện đến giải quyết tranh chấp theo Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) đối với một vấn đề phát sinh theo Chương này nếu chưa tìm cách giải quyết vấn đề này thông qua hợp tác tham vấn kỹ thuật theo Điều này.

Điều 7.18: Giải quyết tranh chấp

  1. Trừ trường hợp Chương này có quy định khác, Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) áp dụng đối với Chương này trong các trường hợp sau:

(a) Đối với Điều 7.8 (Tương đương), Điều 7.10 (Kiểm toán) và Điều 7.11 (Kiểm tra nhập khẩu), Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) sẽ được áp dụng đối với Bên trả lời sau một năm kể từ ngày có hiệu lực của Hiệp định này đối với Bên đó; và

(b) Đối với Điều 7.9 (Phân tích rủi ro và khoa học), Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) sẽ được áp dụng đối với Bên trả lời sau hai năm kể từ ngày có hiệu lực của Hiệp định này đối với Bên đó.

  1. Trong một tranh chấp theo Chương này có liên quan đến các vấn đề khoa học kỹ thuật, một ban hội thẩm nên tìm lời khuyên từ các chuyên gia được lựa chọn bởi ban hội thẩm đó sau khi tham vấn với các Bên có liên quan đến tranh chấp. Với mục đích này,  ban hội thẩm đó có thể, nếu xét thấy phù hợp, lập một nhóm chuyên gia tư vấn kỹ thuật, hoặc tham khảo ý kiến ​​các tổ chức tiêu chuẩn quốc tế có liên quan một cách chủ động hoặc theo yêu cầu của một trong các Bên tranh chấp.

—————————————————————

1 Để giải thích rõ hơn, các Bên thừa nhận việc kiểm tra nhập khẩu là một trong nhiều công cụ sẵn có để đánh giá sự tuân thủ các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch của một Bên nhập khẩu.

2 Không Bên nào  được viện đến giải quyết tranh chấp theo Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) cho điểm này.

3 Không Bên nào được viện đến giải quyết tranh chấp theo Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) cho khoản này.

4 Để giải thích rõ hơn, khoản 4(b) chỉ áp dụng cho một phân tích rủi ro đối với một biện pháp vệ sinh và kiểm dịch thuộc quy định về vệ sinh kiểm dịch vật trong phạm vi Phụ lục B của Hiệp định SPS.

5 Trong phạm vi khoản 6(b) và 6(c), một lựa chọn quản lý rủi ro không có hạn chế về thương mại nhiều hơn mức cần thiết, trừ trường hợp có sẵn một lựa chọn hợp lý khác ít hạn chế về thương mại hơn một cách đáng kể mà vẫn đảm bảo một mức độ phù hợp về an toàn vệ sinh hoặc kiểm dịch, có tính đến tính khả thi về kinh tế và kỹ thuật.

6 Để giải thích rõ hơn, Điều này không ngăn cản một Bên nhập khẩu kiểm tra một cơ sở nhằm xác định cơ sở đó có tuân thủ các yêu cầu vệ sinh hoặc kiểm dịch của Bên nhập khẩu hay không hoặc có tuân thủ yêu cầu vệ sinh hoặc kiểm dịch mà Bên nhập khẩu đã được xác định là tương đương với các yêu cầu vệ sinh hoặc kiểm dịch của mình hay không.

7 Để giải thích rõ hơn, Điều này không cấm một Bên thực hiện kiểm tra nhập khẩu để có được thông tin phục vụ việc đánh giá nguy cơ hoặc để xác định nhu cầu, định kỳ xây dựng hoặc thẩm định chương trình nhập khẩu dựa trên rủi ro.

8 Trong phạm vi khoản này, “ngày” không bao gồm các ngày nghỉ lễ của Bên nhập khẩu.

9 Để giải thích rõ hơn, Điều này không ngăn cản một Bên nhập khẩu loại bỏ hàng hoá trong đó tìm thấy một tác nhân gây bệnh truyền nhiễm hoặc dịch hại có thể lây lan và gây thiệt hại cho sinh mạng hoặc sức khỏe con người, động vật hoặc thực vật sống trong lãnh thổ của Bên đó nếu hành động khẩn cấp không được thực hiện.

10 Để giải thích rõ hơn, Điều này chỉ áp dụng cho một biện pháp vệ sinh hoặc kiểm dịch thuộc quy định về vệ sinh kiểm dịch trong phạm vi Phụ lục B của Hiệp định SPS.

(Bấm vào đọc chương 8 & 9)

Facebooktwitterpinterestlinkedinmail

Sáng Lập Đảng

Nguyễn Thái Học người Sáng Lập Việt Nam Quốc Dân Đảng

Tìm Bài Theo Tháng

Tự Điển Hỏi Ngã Tiếng Việt