Hình ảnh người cha: Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền

Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền

Từ ngàn xưa, trải qua lịch sử Giáo Hội, đã có nhiều vị chết để bảo vệ quyền lợi của Giáo Hội. Ngày nay đã có một vị Giám mục nào sẵn sàng liều chết để bảo vệ Nhân quyền chưa? Ngày hôm nay tôi là người được diễm phúc ấy: Thiên Chúa đã gọi tôi để chịu Tù Tội và Chết Chóc vì bảo vệ Nhân Quyền và Công Lý”.
Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền một con chiên của Chúa một công dân ưu tú của dân tộc Việt Nam. NGƯỜI đã hiến trọn cuộc đời cho đạo, cho đời (với tấm lòng kính mến-LTN)

HÌNH ẢNH MỘT NGƯỜI CHA: Đức Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Ðiền

Gs Nguyễn Lý- Tưởng

Những biến cố xảy ra từ tháng 5,1963 và những ngày tháng sau đó đã ít nhiều làm xáo trộn nếp sống của người dân xứ Huế, nhất là đối với một sinh viên Công Giáo như chúng tôi. Trước ngày 26/10/1963, tôi là một trong ba người được anh em sinh viên Công Giáo Huế cử đi Sài Gòn họp Tổng Liên Đoàn Sinh Viên Công Giáo Đại Học Việt Nam, có Cha Tuyên Úy cùng đi với chúng tôi. Chiều ngày 1 tháng 11, 1963, trong lúc chúng tôi đang họp tại Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ, đường Nguyễn Thông Quận 3 Sài Gòn, cạnh trường Regina Pacis thì tiếng súng của phe quân nhân đảo chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm bắt đầu…cho đến ngày hôm sau, 2- 11- 1963 thì chúng tôi được tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ là Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã bị thảm sát…
Tôi chạy đến Trung Tâm Công Giáo ở đường Nguyễn Đình Chiểu tìm Cha Tuyên Úy…Ngài nói với tôi: – Có biết Cha Thuận ở đâu không, nhắn Ngài vào Bộ Tổng Tham Mưu xin làm phép xác cho hai ông Ngô Đình Nhu và Ngô Dình Diệm…(Cha Thuận tức là Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, mới được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tấn phong Hồng Y vào ngày 21- 2- 2001 tại Vatican).
Tôi trả lời:
– Con nghe tin Cha Thuận đã trở về Huế rồi.
Trung Úy Trọng, em ruột của Cha Bermand Nguyễn Văn Thảo (Dòng Xitô Châu Sơn) đang có mặt ở đó. Anh thuộc Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống…Anh nói với chúng tôi:
– Hai ông đã chết rồi…bị họ giết rất dã man…
Tôi liền chạy đến nhà anh Hồ Ngọc Tâm, lúc đó là Đại Úy thuộc Lữ Đoàn Phòng Vệ và biệt phái qua làm tại Phòng I Tổng Tham Mưu. Anh nói với tôi:
– Chính mắt tôi chứng kiến, họ giết hai ông rồi. Thi thể của hai ông hiện đang để trên branca có phủ một cái khăn trắng, nằm nơi bãi cỏ cạnh gốc cây…
Tôi trở về nhà người bà con với tâm trạng rất buồn…Tiếng nhạc kích động từ trong một building của Mỹ ở đường Bùi Thị Xuân vang lên rất lớn, tiếng nhạc điên cuồng, thác loạn làm cho tôi cảm thấy đau xót và thật mỉa mai trước cái cái tang của một Tổng Thống. Từ đây, với súng đạn trong tay, người ta muốn làm gì thì làm. Một Tổng Thống mà không được Hiến Pháp và Luật Pháp bảo vệ thì số phận của người dân sẽ ra sao ? Với tuổi trẻ và đang được nghe thầy giáo dạy các bài về chế độ dân chủ trong lớp, tôi thấy thật mâu thuẫn. Ở Huế, cảnh náo loạn xảy ra thường xuyên.

Những người tự xưng là “TRANH ĐẤU” muốn bắt ai thì bắt, muốn buộc tội ai thì buộc, chính quyền làm ngơ để cho họ tha hồ hành động. Ngày nào cũng có biểu tình, tranh đấu, trường học phải đóng cửa, những ai muốn đi học cũng bị ngăn cản. Những tên du đảng, lực lượng xích lô kéo vào chiếm các phòng ốc trong đại học, ở đó luôn, tắm rửa, đem đồ lót phơi ngay cửa sổ phòng học, người qua lại ở ngoài đường đều nhìn thấy. Tình trạng khủng bố người theo đạo Công Giáo ở những vùng xa xôi hẻo lánh, nhất là những nơi tân tòng…Và ngay trong thành phố, những người Công Giáo buôn bán làm ăn, ai có nhà cao cửa rộng, ai có máu mặt…cũng bị chụp mũ “Kinh Tài Cần Lao” khiến cho nhiều người phải bán nhà cửa, sang lại tiệm buôn để chạy vào Sài Gòn…

Trước tình hình đen tối như thế, sự chia rẽ trầm trọng giữa người Việt Nam không cùng một tôn giáo; sự kỳ thị, bất công giữa những người cũ và mới trong chính quyền, mới hôm trước hôm sau đã trở mặt: công chức, cảnh sát, sĩ quan Công Giáo trong quân đội v.v. bị thuyên chuyển, bị kỷ luật…đã làm cho anh em chúng tôi rất thất vọng. Tôi là một sinh viên, bản thân và gia đình tôi không có hưởng nhờ quyền lợi gì của chế độ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Cha và anh tôi, những người thân thuộc trong gia đình, họ hàng của tôi đã đứng trong hàng ngũ những người quốc gia chống lại Việt Minh, chống lại Cộng Sản và đã bị Cộng Sản giết trước năm 1954, trước khi Ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh.

Năm 1954, tôi còn là học sinh Trung Học, năm 1963, tôi còn là sinh viên Đại Học, chưa tốt nghiệp, chưa đi làm…Tôi hoàn toàn không mang mặc cảm nào hết về sự liên hệ với chế độ đó. Tôi thấy cần phải dấn thân vào con đường tranh đấu để loại trừ những tên Cộng Sản nằm vùng trong sinh viên, để liên kết những người quốc gia, nhất là những bạn bè có thân nhân là nạn nhân Cộng Sản, thành một lực lượng hầu phá vỡ âm mưu của bọn Cộng Sản và tay sai, ít nhất trong phạm vi học đường.

Lúc đó tôi đang sinh hoạt với tổ chức Thanh Niên Thiện Chí, anh em thường tổ chức đi cắm trại ở vùng quê, làm công tác xã hội. Tôi đề nghị Cha Tuyên Úy SVCG và anh em trong Ban Chấp Hành Đoàn Sinh viên Công Giáo tổ chức những chuyến thăm viếng các xứ tân tòng, tổ chức lửa trại, văn nghệ, phát quà của cơ quan Caritas cho người nghèo, tổ chức thánh lễ cho họ…mục đích an ủi họ trong cảnh bị kỳ thị, áp bức, thậm chí nhiều người còn bị khủng bố, đánh đập (trong đó có linh mục Nguyễn Cao Lộc ở xứ Mỹ Á đã bị bọn người kỳ thị tôn giáo đánh…)

Trong giáo phận lúc đó không có Giám Mục, Đức TGM Phêrô Ngô Đình Thục đang họp ở Roma và Ngài đã ở luôn không về…Con chiên không có Chủ Chăn, thật bơ vơ ! Một hôm, chúng tôi được thông báo đi đón Đức Tân Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Điền, nguyên Giám Mục Mỹ Tho (1) sẽ đến Huế thay thế Đức TGM Phêrô…Tôi rất mừng vì khoảng 1959, tôi đã từng gặp Ngài ở Dalat trong dịp nghỉ hè. Tôi đã được dự thánh lễ và nghe Ngài giảng tại trụ sở của các cha Dòng Tiểu Đệ Chúa Giê Su…Ngài trẻ trung, khiêm tốn, rất khôi ngô và rất lôi cuốn giới trẻ lúc đó.

Tôi đã được nói chuyện với Ngài một vài lần trước khi Ngài nhận chức Giám Mục Cần Thơ. Ngài nói giọng Miền Nam rất ngọt ngào, nụ cười duyên dáng, thánh thiện đầy tình yêu thương, bác ái…Tôi nghe nói Ngài đã từ chối khi được Tòa Thánh chọn làm Giám Mục, Ngài nói rằng Ngài thuộc dòng hèn mọn với lý tưởng phục vụ người lao động nghèo và cùng chia xẻ với họ trong công việc hằng ngày, Ngài không muốn làm Giám Mục vì sợ không còn được phục vụ dưới hình thức như thế nữa. Nhưng nghe đâu Đức Khâm Sứ Tòa Thánh đã trả lời rằng: Đức Thánh Cha chỉ cần sự vâng lời, mà VÂNG LỜI là một trong ba lời thề quan trọng nhất của Linh Mục. Thế là Ngài đã trở thành Giám Mục Cần Thơ.

Ở Huế lúc bấy giờ rất ít người biết đến Ngài, ngoại trừ một số các Cha có giao thiệp với bên ngoài giáo phận, có đi đây đi đó, đa số đều chỉ biết đến những chuyện trong địa phương mình mà thôi. Ngày Ngài đến Huế, có Đức Tổng Giám Mục Sài Gòn, Phaolô Nguyễn Văn Bình và một số các vị Giám Mục đi theo. Đức Khâm Sứ Tòa Thánh cũng có mặt trong phái đoàn. Hôm đó, các linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo hữu trong giáo phận đã đến nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, đường Nguyễn Huệ, TP Huế để đón Đức Cha. Anh em sinh viên Công Giáo chúng tôi được trao cho nhiệm vụ tổ chức tiếp đón. Phút gặp gỡ đầu tiên thật là cảm động, giọng Đức Cha Bình trong phần giới thiệu cũng rất xúc động, nhất là khi nghe Đức Cha Điền nói, mọi người càng cảm động hơn nữa. Nhiều người sụt sùi khóc vì từ nay, giáo phận đã có người Cha tốt lành, thánh thiện, khôi ngô, ngọt ngào, giọng nói của Ngài như tiếng mẹ ru bên nôi bằng những lời ca dao đượm tình dân tộc.

Từ đó, tôi có dịp liên lạc với Ngài thường xuyên. Tôi muốn làm cho những bạn bè của tôi, những người ngoài Công Giáo biết đến Ngài. Tôi nghĩ rằng, khi tiếp xúc với Ngài chắc chắn những người đó sẽ có cảm tưởng tốt đối với Công Giáo, qua Ngài, họ sẽ thấy được tinh thần bác ái, yêu thương của người Công Giáo. Sau nhiều lần tiếp xúc với tôi và qua những người trong gia đình, họ hàng của tôi hiện là linh mục trong giáo phận, Ngài đã hiểu tôi nhiều…Tôi thường nói về Ngài khi có dịp gặp những người quen biết trong giới chính trị và trong giới trí thức…Họ đã nhờ tôi làm trung gian để đến với Ngài…Kết quả là rất nhiều người sau khi gặp Ngài, đã tỏ ra rất có cảm tình và mến phục Ngài.

Với giọng nói ngọt ngào như thế, nhưng Ngài cũng không thiếu cương quyết trong công việc. Cựu Nghị Sĩ Nguyễn Văn Mân, nay đã ngoài 80 tuổi, hiện đang còn sống ở Houston, Texas, Hoa Kỳ, có kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây…Năm 1964, ông được Bộ Nội Vụ Sài Gòn cử ra Huế giải quyết một việc rắc rối có liên quan đến Công Giáo ở Huế. Ông Mân nguyên là tỉnh trưởng Quảng Trị năm 1947 thời Cụ Trần Văn Lý làm Hội Đồng Chấp Chính Lâm Thời khi quân Pháp mới đổ bộ vào Huế, Quảng Trị. Ông là Phó Chủ Tịch Thanh Niên Liên Đoàn Công Giáo VN ở miền Trung năm 1945- 1946 lúc đó LM Trần Hữu Thanh DCCT là Tuyên Úy, ông có người chú ruột làm linh mục và người em cô cậu là Đức TGM Nguyễn Như Thể hiện nay.

Nguyên sau cuộc chỉnh lý của Tướng Nguyễn Khánh ngày 30- 1- 1964 tại Sài Gòn, Thiếu Tướng Tôn Thất Xứng được lên làm Tư Lệnh Vùng I kiêm Đại Biểu Chính Phủ tại Trung Nguyên Trung Phần, văn phòng đặt tại Đà Nẵng và Đại Tá Nguyễn Chánh Thi về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 ở Huế. Không biết do ai xúi giục, Tướng Tôn Thất Xứng đã gởi một văn thư đến Tòa Tổng Giám Mục Huế, yêu cầu Đức Cha Điền giao nạp cho chính quyền tài sản của “Ông Ngô Đình Thục” trong đó có chiếc xe hơi mà Đức Cha Điền, với tư cách là Tổng Giám Mục Huế đang sử dụng. Khi tiếp được văn thư, Đức TGM Nguyễn Kim Điền đã trả lời Vị Đại Biểu Chính Phủ nội dung như sau:
“Tất cả nhà cửa, xe cộ, tài sản hiện chúng tôi đang quản lý với tư cách là Tổng Giám Mục TGP Huế là của Giáo Hội Công Giáo, không phải là tài sản của “Ông Ngô Đình Thục”. Nếu Ông Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I kiêm Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật, kiêm Đại Biểu Chính Phủ tại Trung Nguyên Trung Phần muốn tịch thu các tài sản đó thì yêu cầu Ông hãy đưa quân đội và khí giới đến đây mà lấy. Ký tên: Philipphê Nguyễn Kim Điền, Tổng Giám Mục.”

Thư trả lời đó, Đức Cha cũng gởi cho Bộ Nội Vụ ở Sài Gòn. Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ lúc đó là Ông Hà Thúc Ký, tiếp được thư nói trên liền cử Ông Nguyễn Văn Mân đại diện Bộ ra Huế liên lạc với Tòa Đại Biểu đồng thời cũng đến gặp Đức TGM Nguyễn Kim Điền để tìm hiểu sự việc. Ai nghe chuyện cũng cười Ông Tướng quá dốt về chính trị. Tất nhiên sau đó không ai còn dám đòi tịch thu tài sản của “Ông Ngô Đình Thục” mà họ quan niệm đó là tài sản của “ gia đình họ Ngô”!!!

Mới đến Huế chẳng bao lâu, Đức Cha liền đi thăm các giáo xứ tân tòng ở những miền quê xa xôi hẻo lánh và thường đi xe gắn máy đến các giáo xứ gần, trong phạm vi thành phố. Ngài đến không báo trước, có khi gặp cha sở, có khi không có ai ở nhà…Ngài tự động đi thăm các gia đình Công Giáo trong xứ, hỏi han người nầy người nọ làm cho con chiên rất phấn khởi và được an ủi rất nhiều. Ngài tránh không hề nhờ vả đến các phương tiện của chính quyền đương thời…

Năm 1964, có trận bão lụt lớn ở các tỉnh Miền Trung. Lúc đó Ông Trần Văn Hương mới lên làm Thủ Tướng ở Sài Gòn, sinh viên và Phật tử ở Huế và các tỉnh Miền Trung biểu tình chống đối…Chúng tôi thấy nội bộ quốc gia càng ngày càng chia rẽ trầm trọng, thanh niên, sinh viên học sinh bị lôi cuốn vào những cuộc đấu tranh chính trị, bỏ việc học hành, tuổi trẻ đã bị lợi dụng cho một nhóm người có tham vọng chính trị hoặc bọn thân Cộng từ trong bóng tối đang giựt giây. Chúng tôi bèn vận động anh em sinh viên Công Giáo và sinh viên thiện chí tổ chức những chuyến cứu trợ đồng bào…Chúng tôi mượn xe của quân đội và xin ông Tỉnh Trưởng Thừa Thiên (Trung Tá Võ Hữu Thu) cấp cho một số quần áo, thực phẩm của Ty Xã Hội để đem cho đồng bào. Anh em sinh viên đi từng nhà quyên góp tiền bạc, quần áo v.v. Chúng tôi vào gặp Đức Cha Điền để trình bày công việc của anh em sinh viên cho Ngài biết. Ngài tự động tháo gỡ giây chuyền có tượng Thánh giá đang đeo trước ngực…và nói với tôi:
— Những người bạn ở Tây Đức đã tặng cho Cha “Thánh giá” và giây chuyền nầy. Cha giữ lại “Thánh giá”, còn giây chuyền trao cho con đem bán để lấy tiền giúp vào quĩ cứu trợ. Đây là phần đóng góp của cá nhân Cha.
Tôi hơi có vẻ ngần ngại, rồi bỗng một ý nghĩ hay hay đã đến với tôi lúc đó.

Tôi nói:

— Con sẽ có cách sử dụng kỷ vật nầy. Để con làm theo cách của con, xem thử kết quả ra sao.

Tôi mang giây chuyền bằng vàng Tây đó về và cùng mấy anh chị em sinh viên đi đến các nhà giàu hỏi giá. Giáo sư Martine Piat, dạy Pháp văn, cho giá 50.000 đồng lúc đó, bằng mười lần lương của một Trung Úy độc thân. Tôi không chịu bán với giá đó và quyết định làm theo kế hoạch của tôi. Tôi in ra 1000 vé số, mỗi vé 200 đồng, lô trúng duy nhất là giây chuyền vàng của Đức Cha Điền. Trong dịp hành hương đầu năm kính Đức Mẹ La Vang, chúng tôi bán hết số vé đã in, được 200.000 đồng cho vào quỹ cứu trợ. Cha Demerck, Dòng Tên ở Trung Tâm Xavie trúng giây chuyền đó và đã tặng lại cho Đức Cha Điền ngay sau đó. Đức Cha rất ngạc nhiên và khen sáng kiến của chúng tôi.

Đoàn sinh viên Công Giáo Huế đã mang số tiền quyên góp được và số thực phẩm, áo quần vào Đà Nẵng, ở lại một đêm tại Trường Thánh Tâm, yết kiến Đức Giám Mục Phạm Ngọc Chi, xin ý kiến của Ngài về vấn đề cứu trợ nên đến những đia điểm nào…Hôm sau đoàn xe của chúng tôi vào Hội An, nước còn mênh mông chưa rút hết…Chiều đó, chúng tôi vào tận Quảng Tín, đến tận các nhà thờ xa xôi hẻo lánh, gặp các linh mục và trực tiếp phân phối tiền và phẩm vật cứu trợ cho đồng bào…Khi trở về, chúng tôi đã báo cáo lại với Đức Cha Điền các họat động của anh em và trình cho Ngài những hình ảnh mà chúng tôi đã chụp được trong chuyến đi. Ngài ban lời khen ngợi anh em…

Mùa Hè năm 1966, tình hình ở Huế và Miền Trung rất căng thẳng, phe “TRANH ĐẤU” đang phát động những cuộc biểu tình bạo động, cướp chính quyền nhân vụ Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I…mất chức. Tướng Nguyễn Chánh Thi đã dựa vào lực lượng tranh đấu để làm áp lực với Sài Gòn hầu củng cố cho địa vị của ông ở Miền Trung. Các cuộc tranh đấu đó lúc đầu do những người ủng hộ Nguyễn Chánh Thi chủ xướng, nhưng sau đó bị tràn ngập bởi lực lượng Phật tử và sinh viên tranh đấu, trong đó có nhiều phần tử thân Cộng như Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lê Hiếu Đằng, Lê Quang Long, Phan Duy Nhân v.v. Chúng tôi cũng tập hợp một lực lượng sinh viên chống Cộng để tự vệ và chống lại các sinh viên thiên Cộng. Tôi đi vào Sài Gòn trình bày tình hình với Trung Ương và tiếp xúc với báo chí mục đích nói rõ các hoạt động của Cộng Sản trong sinh viên để cho dư luận biết…

Hôm đó, không có máy bay Huế – Sài Gòn, tôi bèn đổi máy bay đi Dalat. Tôi gặp Đức Cha tại phi trường, Ngài cũng đi Dalat. Máy bay đến phi trường Liên Khương, không có ai đón Ngài cả…không hiểu tại sao. Tôi liền mượn điện thoại gọi lên Đại Học, báo tin cho Cha Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập và xin xe đón Ngài. Từ Liên Khương lên Dalat khoảng 30 cây số, khá xa so với các phi trường khác ở Việt Nam hồi đó. Lợi dụng thời gian từ phi trường Phù Bài Huế cho đến khi về tới Đại Học Dalat, tôi trao đổi với Ngài về tình hình ở Huế. Ngài rất quan tâm và lắng nghe rất đầy đủ những gì tôi trình bày.

Trong Tết Mậu Thân, lúc đó tôi đang làm Dân Biểu Hạ Nghị Viện, đơn vị Thừa Thiên, được đi theo để hướng dẫn phái đoàn các Giám Mục Việt Nam do Đức TGM Nguyễn Văn Bình hướng dẫn ra thăm Huế. Phái đoàn đến Đà Nẵng, và đã được Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân Đoàn I cho máy bay trực thăng đưa ra Huế, có Đức Cha Phạm Ngọc Chi cùng đi theo. Máy bay đã đáp xuống sân đá banh trước mặt Dòng Chúa Cứu Thế Huế, Đức Cha Điền đã đến đó để đón tiếp phái đoàn. Đồng bào nạn nhân cũng có mặt rất đông ở đó. Đức Cha Bình đã thay mặt các Đức Cha và phái đoàn an ủi anh em giáo hữu, tặng quà và ban phép lành cho họ. Những hình ảnh tang tóc trong Tết Mậu Thân đã khiến cho Đức Cha Điền rất đau xót.

Giáo Xứ Phủ Cam, nơi có nhà thờ chính tòa là nơi Đức Cha thường đến đó cử hành những nghi lễ long trọng, đã trở nên một nơi đầy máu và nước mắt. Có hơn ba trăm (300) người đã bị Việt Cộng bắt đi và đã bị thảm sát tại Khe Đá Mài, quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên. Khoảng tháng 10 năm 1969, khi Đức TGM Nguyễn Kim Điền mới từ Roma về đến Huế, Ngài được tin chính quyền mới tìm được mấy trăm nạn nhân bị thảm sát, vất xác dưới khe Đá Mài, lâu ngày, thịt thối rữa hết chỉ còn sọ người và xương xóc nằm lẫn lộn thành một đống. Những hình ảnh đó đã được chiếu trên Truyền Hình và tin tức được loan báo trên đài Phát Thanh…Đức Cha rất xúc động.

Ngay khi Ngài vừa về đến Sai Gòn, chưa có mặt ở Huế, thì có một vị Dân Biểu địa phương đã nói với báo chí rằng: “Ông Nguyễn Kim Điền, TGM ở Huế đã dính vào vụ tranh chấp những xác chết đó”. Lúc bấy giờ có nhiều sự bất đồng giữa các nhân vật có thế lực đại diện cho các tổ chức tôn giáo, chính trị tại địa phương về địa điểm sẽ được an táng các nạn nhân. Chúng tôi đã đến gặp đại diện các tôn giáo cũng như Hội Nạn Nhân Cộng Sản trong Tết Mậu Thân để hỏi ý kiến, và cuối cùng đã quyết định sẽ an táng các nạn nhân tại chân núi Ba Tầng, gần núi Ngự Bình, phía sau lưng làng Phủ Cam.

Qua Đài Phát Thanh và Đài Truyền Hình Huế, chúng tôi đã trình bày với đồng bào mọi diễn tiến và quyết định của Ban Tổ Chức tang lễ, kêu gọi mọi người bình tĩnh, tránh những hành động hay lời nói gây chia rẽ có hại cho tình đoàn kết quốc gia. Chúng tôi cũng cho báo chí biết sự việc xảy ra khi Đức TGM còn ở ngoại quốc, Ngài hoàn toàn không hay biết gì…Khi về đến Huế, Ngài đã đến nhà thờ chính tòa dâng thánh lễ cầu nguyện cho các nạn nhân và gia đình của họ và tuyên bố Công giáo không liên quan gì đến cuộc tranh chấp nói trên.

Cảm động nhất là trong lễ an táng của hai linh mục Gioan Baotixita Bửu Đồng và Micae Hoàng Ngọc Bang cùng hai sư huynh dòng La San bị Việt Cộng chôn sống tại Phú Thứ, cử hành tại nhà thờ Phủ Cam ngày 12 tháng 11, 1969, Ngài đã đọc một bài điếu văn làm cho mọi người không cầm được nước mắt.

Sau Tết Mậu Thân, cơ sở Dòng Kín Carmel Huế bị hư hại nặng. Quá kinh hoàng nên Mẹ và chị em trong Dòng đã vào tạm trú tại nhà Ông Nguyễn Văn Bửu, Phú Nhuận Sài Gòn. Vào một buổi sáng rất sớm, chúng tôi vừa thức dậy, chuẩn bị đi làm thì một nữ tu đến báo tin Cha Bề Trên Benoit Nguyễn Văn Thái, Dòng Bénédictin Thiên An Huế mới bị chết do Việt Cộng pháo kích vào Sài Gòn hôm qua. Ngài đã đến thăm ông Nguyễn Văn Bửu và ông nầy đã nhường phòng ngũ của mình cho ngài tạm trú…Các nữ tu quá hoảng sợ và không biết giải quyết làm sao. Tôi bèn gởi điện tín báo tin cho Các Bề trên Dòng Bénédictin ở Huế, Ban Mê Thuột và báo cho Đức TGM Huế biết. Đồng thời tôi cũng nhờ Cha Cao Văn Luận và Dược Sĩ Nguyễn Cao Thăng, Phụ Tá Tổng Thống lúc đó nhờ tìm cách giúp nhà Dòng đưa xác Cha Bề Trên về an táng ở Huế. Ít lâu sau, tôi nhận được thư viết tay của Đức Cha Điền cám ơn về việc đó.

Tết năm 1971, tôi đưa vợ con đến thăm Ngài. Trong phòng khách của Tòa TGM Huế lúc đó có nhiều giáo hữu ở trong khu vực lân cận cũng đến thăm Ngài. Con gái đầu của tôi là H.A đưa tay nắm lấy tượng Thánh giá Ngài đang đeo ở trước ngực, không chịu buông ra. Vợ tôi tỏ vẻ lo lắng, sợ vô lễ với Ngài…Nhưng Ngài tươi cười ẳm cháu vào lòng và nói rằng: “Giây chuyền đeo tượng nầy, Cha đã trao cho ba con đi bán rồi, nhưng nay vẫn còn đây. Đó là ý Chúa vậy…” Ngài muốn nhắc lại câu chuyện cứu trợ nạn nhân bão lụt hồi 1964, khi tôi còn là sinh viên, Ngài đã tặng giây chuyền đó cho anh em đem đi bán để giúp vào quỹ cứu trợ….

Cuối năm 1973, có người anh ruột vợ tôi chịu chức linh mục. Đức Cha đã quyết định sẽ tổ chức lễ phong chức cho thầy đó tại ngay nhà thờ giáo xứ Phù Lương, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Đó là một trường hợp rất đặc biệt vì xưa nay những lễ nghi long trọng như thế đều tổ chức tại nhà thờ chính tòa Phủ Cam, Huế. Trước khi vào lễ Ngài đã nhắc lại hoàn cảnh gia đình cha mẹ anh em của vị tân linh mục, là nạn nhân của biến cố Mậu Thân 1968 ở Huế, cha chết, ba đứa em chết, nhà cửa hư hại, mẹ con phải chạy về nương náu tại giáo xứ Phù Lương. Mặc dù trong hoàn cảnh như thế nhưng bà mẹ và anh em chỉ một lòng xin Chúa ban cho người con của gia đình được làm linh mục…Bài giảng rất cảm động với mục đích cho mọi người biết quý trọng ơn kêu gọi và giúp người đi tu được trung thành với ơn gọi. Khi gia đình đến Tòa Giám Mục để cám ơn, Ngài đã đón tiếp rất nồng hậu trong tình cha con…

Sau hiệp định Paris, 27- 1- 1973, Phong Trào Sùng Kính Đức Mẹ (Đạo Binh Xanh) đã đứng ra tổ chức rước tượng Đức Mẹ Fatima đến Việt Nam để cầu nguyện cho Hòa Bình. Từ Sài Gòn, tượng Đức mẹ đã được đưa ra Huế rồi trở vô Đà Nẵng, Qui Nhơn, Mỹ tho, Cần Thơ…Máy bay đưa tượng Đức Mẹ ra Huế, Đức Cha Điền đón tại phi trường Phù Bài và đi đường bộ ra La Vang. Ngài không đồng ý sử dụng máy bay trực thăng vì Ngài tránh không dùng phương tiện của chính quyền. Đức Cha Chi rất nôn nóng vì Ngài cũng cần đón tượng Đức Mẹ về Đà Nẵng cho kịp giờ…Nhưng đành phải chịu. Tại La Vang, sau khi tôn vinh Đức Mẹ xong thì Đức Cha Chi rước tượng Đức Mẹ lên máy bay trực thăng bay vô Đà Nẵng ngay vì đồng bào đang đợi Ngài ở đó.
Trong bài giảng tại Vương Cung Thánh Đường La Vang đổ nát, Đức TGM Nguyễn Kim Điền đã lên án cả hai bên : Quốc Gia cũng như Cộng Sản, Ngài đả kích những hành vi tham nhũng, thối nát, chính quyền phải chịu trách nhiệm về một xã hội nghèo đói, chậm tiến, bất công…Bài giảng của Ngài đã được phổ biến tại Sài Gòn…Phát biểu trong cuộc họp của Hội Đồng Giám Mục Á Châu, Ngài cũng đã nhắc lại những tư tưởng đó. Ngài nói rằng Giáo Hội phải xét lại mình, xem có đi đúng đường lối của Đức Kitô hay không ? Cái nhìn của Ngài về vấn đề người nghèo…cũng đã được chú ý rất nhiều trước đây.

Lần cuối cùng chúng tôi gặp Ngài vào cuối năm 1973, từ đó không còn dịp nào trở về Huế để thăm Ngài nữa. Sau 30- 4- 1975, ở trong nhà Tù CS, tôi được Trung Tá Nguyễn Thế cho xem bài diễn văn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong dịp tiếp phái đoàn Giám Mục Việt Nam, khoảng 1980 và tài liệu “Đường Hy Vọng” của Đức TGM Nguyễn Văn Thuận biên soạn. Đức Thánh Cha đã ca tụng Đức TGM Nguyễn Kim Điền là một người can đảm…Tôi không biết tình hình bên ngoài lúc đó như thế nào vì mới ở nhà giam Hỏa Lò Hà Nội về…Một số anh em có gia đình đến thăm, biết được một vài tin tức của Giáo Hội…đã cho biết Đức TGM Nguyễn Kim Điền đã lên tiếng tố cáo chính sách tiêu diệt tôn giáo của CSVN và đang bị quản chế …Anh em chúng tôi đã nhắc nhở nhau cầu nguyện cho Ngài. Đầu năm 1988, tôi gặp Linh Mục Nguyễn Văn Lý, nguyên bí thư của Đức Cha Điền bị kết án 15 năm tù mới được chuyển đến Trại Nam Hà (tỉnh Hà Nam Ninh), được Cha Lý cho biết thêm một vài chi tiết về Đức Cha Điền.(2)

Tết năm đó, tôi được ra khỏi nhà tù, về với gia đình tại Sài Gòn. Tôi rất muốn đi Huế thăm Đức Cha, nhưng không có phương tiện vã lại cùng còn ngại công an theo dõi nên không dám đi lại nhiều. Tháng 5,1988 tôi được tin Đức Cha đau nặng phải đem vào bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn. Tôi muốn đến thăm nhưng lại được tin Công An canh gác không cho người ngoài đến đó. Thế rồi khoảng hai tuần sau, chúng tôi nghe đài BBC loan báo Ngài đã qua đời (lúc 1 giờ 30 chiều 8 tháng 6 năm 1988 tại Bệnh viện Chợ Rẫy). Các đài VOA, BBC, đài Pháp, đài Chân Lý Á Châu ở Manila đều loan tin kèm theo lời bình luận về cái chết của Ngài. Dư luận trong và ngoài nước đều cho rằng chính Cộng Sản đã giết Ngài (hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp…) (2)
Thi hài của ngài được quàn tại Tòa Tổng Giám Mục, Sài Gòn từ sáng 9 tháng 6 cho đến lúc 4 giờ chiều 10 tháng 6 năm 1988 thì linh cữu được đưa đến Nhà Thờ Chính Tòa Đức Bà Sài Gòn và một Thánh Lễ đồng tế do Đức TGM Nguyễn Như Thể và các Linh Mục Huế đã được cử hành tại đây. Đức TGM Nguyễn Văn Bình cùng 8 Giám Mục, 1 Đan Viện Phụ và gần 300 Linh Mục đã cử hành Thánh Lễ đồng tế vào lúc 7 giờ sáng ngày 11 tháng 6 năm 1988. Sau đó, linh cữu được đưa về Huế bằng đường bộ.

Chiều 12 tháng 6 năm 1988, khi xe tang vừa xuống dèo Hải Vân thì giáo dân các xứ đạo ở hai bên Quốc Lộ I như Lăng Cô, Sáo Cát, Thừa Lưu, Nước Ngọt, Cầu Hai, Truồi, Phù Lương,v.v…đổ xô ra đường đón linh cữu của Đức TGM Philipphê. Từng đoàn xe Honda đi theo quan tài mỗi ngày một đông, kẹt đường, xe phải đi chậm… đến An Cựu vào lúc 8 giờ tối. Giáo dân Huế đứng hai bên đường, tay cầm đuốc sáng rực, đi bộ theo linh cữu ngài về Nhà Thờ Chính Tòa Phủ Cam…Giáo dân ở thành phố Huế và vùng phụ cận lúc đó ước khoảng trên mười ngàn người. Nhưng con số hiện diện đã lên đến năm, sáu chục ngàn người, tất nhiên cũng đã có rất nhiều tín đồ của các tôn giáo bạn có cảm tình đã đến với ngài.

Sau 30- 4- 1975, chưa từng thấy có một sự tập hợp đông đảo tại Huế như vậy. Người ta cho rằng đây là một sự biểu dương lực lượng hay là một thái độ phản kháng của những tín đồ các tôn giáo đang bị áp bức dưới chế độ Cộng Sản. Sáng 15- 6- 1988, Thánh Lễ an táng do Đức TGM Nguyễn Văn Bình với 9 vị Giám Mục khác và gần 80 Linh Mục thuộc các Giáo Phận Huế và Đà Nẵng đồng tế.

HÌNH ẢNH CUỐI CÙNG

GS Nguyễn Ngọc Lan, sau khi nghe tin Đức TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền đã bị đầu độc, liền đến Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn (đường Phan Đình Phùng, Quận 3) để kính viếng thi hài của ngài đang để ở đó. Ông cũng như mọi người đã rất xúc động khi thấy thi hài của ngài nằm trên một cái branca…không có một sự tôn kính nào đối với một vị Tổng Giám Mục đạo đức và danh tiếng mà khắp cả thế giới đều biết đến !

Thông thường đối với người chết, dù là người không có địa vị gì trong xã hội thì thân nhân cũng phải chọn một nơi xứng đáng, tôn nghiêm, để đặt thi hài (hay quan tài), tối thiểu cũng trên một cai giường hay một cái bục cao. Trước hình ảnh đó, thân nhân của Đức TGM Philipphê, giáo dân Huế và tất cả những người hiện diện…đã lên tiếng trách Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình và các Linh Mục có trách nhiệm tại Sài Gòn đã xem thường “thi hài người quá cố”…Sau đó, GS Nguyễn Ngọc Lan đã gởi cho Đức TGM Nguyễn Văn Bình một bức thư nói lên cảm tưởng của ông về việc nầy.

Khi Đức TGM Têphanô Nguyễn Như Thể và các Linh Mục thuộc Giáo Phận Huế đến, họ đã thuê người khâm liệm và đưa quan tài của Đức TGM Philipphê đến đặt tại Nhà Thờ Chính Tòa Đức Bà, Sài Gòn để cho mọi người đến kính viếng trước khi đưa về an táng tại Nhà Thờ Chánh Tòa Phủ Cam, Huế.
Tôi và gia đình, bạn bè đã đến nhà thờ Đức Bà Sài Gòn để kính viếng Ngài. Trong thánh lễ cầu nguyện và tiễn đưa Ngài về Huế, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Như Thể đã đọc một bài cám ơn rất cảm động, ca đoàn nhà thờ Đức Bà Sài Gòn đã hát những bài thánh ca rất ý nghĩa. Mọi người đều chảy nước mắt vì mến thương một vị Thánh đã từ giã chúng ta trên cõi đời nầy…

Hôm nay, nhân lễ giổ của Đức TGM Nguyễn Kim Điền, chúng tôi viết lại một vài kỷ niệm tình Cha con, những ngày tháng mà chúng tôi đã được sống gần Ngài, với ước mong các con cái của Ngài, những giáo hữu Cân Thơ, Huế và Việt Nam… đừng bao giờ quên hình ảnh MỘT NGƯỜI CHA TỬ ĐẠO trong giai đoạn mới nầy, dưới chế độ Cộng Sản.

Gs Nguyễn Lý- Tưởng.

(giổ thứ mười 8/6/1988- 8/6/1998)
———————————————
PHẦN BỔ TÚC: (giổ thứ 13: 08/6/2001)

(1) Tiểu Sử của Đức Tổng Giám Mục

Philippe Nguyễn Kim Điền:

– Ngài sinh ngày 13 tháng 3 năm 1921 tại Gia Định. – Năm 12 tuổi, ngài vào tu học tại Tiểu Chủng Viện rồi sau đó vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse, đường Cường Để Sài Gòn (nay đổi tên mới là đường Tôn Đức Thắng). – Ngài chịu chức Linh Mục ngày 21 tháng 5 năm 1947, sau đó làm giáo sư, rồi Giám Đốc Chủng Viện.
– Năm 1955, ngài gia nhập Dòng Tiểu Đệ của Thánh Charles de Foucault, sinh hoạt mục vụ với người nghèo trong các xóm lao động, đạp xích lô để sống tự túc. Ngài cũng đã qua Bắc Phi, sống tập thể trong sa mạc Sahara với các tu sĩ Dòng Tiểu Đệ theo truyền thống của Dòng nầy. Năm 1957, trở về Việt Nam, ngài đã từng sống ở Sài Gòn, Lâm Đồng, Cần Thơ
– Ngày 8 tháng 12 năm 1960, ngài được Tòa Thánh Vatican chính thức bổ nhiệm làm Giám Mục Giáo Phận Cần Thơ (lúc 39 tuổi), lễ tấn phong được tổ chức tại Sài Gòn ngày 22 tháng 01 năm 1961.
– Ngày 30- 9- 1964, ngài được Tòa Thánh cử làm Giám Quản Tổng Giáo Phận Huế thay thế Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục đi họp ở Roma và không trở về sau biến cố 01- 11- 1963.
– Ngày 11- 3- 1968, ngài được chính thức làm Tổng Giám Mục Huế.
– Ngày 19- 10- 1983, ngài gởi thư cho LM Nguyễn Thế Vịnh (34, Ngô Quyền, Hà Nội) là “Chủ Tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo Yêu Nước” nói lên lập trường “hiệp nhất” với Giáo Hội Hoàn Vũ và cảnh giác trước âm mưu lập Giáo Hội Việt Nam “ly khai” với Vatican.
– Ngày 11- 8- 1984, ngài gởi thư cho ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Quốc Hội CSVN phản đối việc Công An tỉnh Bình Trị Thiên đối xử với Ngài và Linh Mục Nguyễn Văn Lý, là vi phạm điều 10 khoản 7 của Hiến Pháp CSVN.
– Trong suốt 120 ngày kể từ 5 tháng 4 năm 1984, ngài bị Công An tỉnh Bình Trị Thiên “mời” đi “làm việc” (thẩm vấn)…và ra lệnh quan chế, cấm ngài không được đi ra khỏi chu vi thành phố Huế. Trước tình thế đó, ngày 19- 10- 1985, ngài đã viết thư gởi cho giáo dân: “Mai này khi tôi bị bắt, tôi xin anh chị em đừng tin một điều tuyên bố nào, dù lời tuyên bố đó mang chữ ký mà người ta gán cho tôi”…
– Ngày 8- 11- 1985, cảm thấy cái chết có thể đến với ngài bất cứ lúc nào nên ngài đã viết di chúc ngắn để lại cho các Linh Mục “khuyên các cha hãy trung thành với Hội Thánh và đoàn kết với nhau, sống trọn vẹn bổn phận của chủ chăn nhân hiền”…
– Ngày 25- 3- 1988, ngài viết một bức thư gởi cho ông Nguyễn Văn Linh, sau khi ông được bầu làm Tổng Bí Thư đảng CSVN và tuyên bố chính sách “đổi mới”…Nội dung bức thư đòi xóa bỏ lệnh quản chế, được phục hồi quyền công dân, được tự do đi lại để thi hành nhiệm vụ Tổng Giám Mục đối với giáo dân Huế và thăm viếng các Giáo Phận khác thuộc Tổng Giáo Phận Huế.
– Ngài qua đời ngày 8 tháng 6 năm 1988 tại Sài Gòn, hưởng thọ 67 tuổi.

(2) Về Tình Hình Giáo Phận Huế sau 30- 4- 1975:

Chúng tôi xin trích dẫn hai nhân chứng (LM Nguyễn Văn Lý và ông Bảo Thái) đã nói về tình hình Giáo Phận Huế sau 30- 4- 1975, và chính sách tiêu diệt tôn giáo (đặc biệt với Công Giáo và Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền) của CSVN:

a.Lời chứng của LM Nguyễn Văn Lý:

“Dịp 2/9/1975, Ngài (Đức TGM Nguyễn Kim Điền) xin đi Hà Nội để chào mừng Đức Hồng Y Tiên Khởi của Giáo Hội Việt Nam: Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Như Khuê, đồng thời để hai vị lãnh đạo gặp nhau lần đầu tiên. Trên đường đi, Ngài thăm hai Đức Giám Mục Giáo Phận Vinh và Thanh Hóa. Tại Hà Nội, Ngài gặp Đức Giám Mục Bắc Ninh hiện nay là Đức Hồng Y Giuse Maria Phạm Đình Tụng. Ngài lưu lại Tòa Tổng Giám Mục hai tuần, gặp Đức TGM Phó Hà Nội, sau nầy là Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, gặp Cha F.X Nguyễn Văn Sang, hiện nay là Giám Mục Thái Bình, Tổng Thư Ký HĐGMVN, gặp Cha Tổng Đại Diện Trọng, hiện nay là Giám Mục Phụ Tá Hà Nội, gặp Cha Nguyễn Tùng Cương, về sau làm Giám Mục Hải Phòng, gặp Cha Tông, hiện nay là Tổng Đại Diện TGP Hà Nội, và nhiều Linh Mục quan trọng khác. Chuyến đi miền Bắc nầy giúp Ngài thấy rõ CSVN đối xử thế nào với các tôn giáo tại Việt Nam nhất là Giáo Hội Công Giáo VN. Về lại Huế, CSVN yêu cầu Ngài viết và nói lại chuyến đi ấy, Ngài nhất mực từ chối. CSVN cũng mời tôi, Linh Mục Thư Ký cùng đi với Ngài làm như thế, nhưng tôi cũng từ chối.

“CSVN đàn áp các tôn giáo càng ngày càng rõ rệt, nhất là việc phân biệt đối xử các tín hữu ghi rõ trong lý lịch mình là “Công Giáo”. Biết bao nhiêu sinh viên Công Giáo không thể tốt nghiệp đại học, bao nhiêu học sinh Công Giáo không thể thi vào đại học, bao nhiêu nhân viên bị mất việc làm chỉ vì mình là Công Giáo. Việc bổ nhiệm, thuyên chuyển Linh Mục càng ngày càng khó khăn. Giữa năm 1975, Ngài phong chức được 02 Linh Mục, đầu năm 1976, được 04 Linh Mục và sau đó đành chịu. Mãi 18 năm sau, năm 1994, Đức TGM Têphanô Nguyễn Như Thể mới phong chức được thêm 05 Linh Mục khác.

“Năm 1977, nhân 2 cuộc họp do Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc VN tổ chức, Đức TGM đã phát biểu 2 bài đòi Tự Do Tôn Giáo, trong đó Ngài xác nhận, người Công Giáo bị đối xử là “công dân hạng hai”. Tôi đánh máy và phổ biến cho các Linh Mục GP Huế. Ít lâu sau, 2 bài nầy được in ra khá nhiều ở Sài Gòn và báo chí nước ngoài đăng lại. Cuối tháng 08/77, LM Hồ Văn Quý, Giám Đốc Đại Chủng Viện Huế và tôi bị bắt, các tòa án nhân dân của các tổ chức quần chúng kết án chúng tôi 20 năm, nhưng năm 1977, Việt Nam vừa nộp đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc, nên chiều 24/12/77, hai chúng tôi được đột ngột thả ra. CSVN buộc Đức TGM Huế phải bổ nhiệm 2 anh em chúng tôi đi làm việc, không cho ở Nhà Chung, nhưng không được bổ nhiệm ở thành phố, giáo xứ lớn, ở vùng núi, ở vùng biển; chỉ được ở giáo xứ nhỏ vùng quê mà thôi. Đầu tháng 7/1978, LM Augustinô Hồ Văn Quý đi Bố Liêu, Quảng Trị, còn tôi đi Đốc Sơ gần TP Huế.

“Trước Giáng Sinh 1979, CSVN dùng bạo lực cưỡng chiếm Tiểu Chủng Viện Hoan Thiện, đuổi 3 Linh Mục đang dạy trong đó phải đi làm việc khác và hơn 80 chủng sinh phải về sống với gia đình…“Lúc bấy giờ, CSVN không muốn giáo hữu đi hành hương kính Đức Mẹ La Vang, ngăn chận xe khách dọc đường, đuổi tất cả những ai muốn đi La Vang xuống…“Từ 1976, Đức TGM Huế không truyền chức Linh Mục được thêm cho một chủng sinh nào. Đại Chủng Viện Huế coi như bị đóng cửa với một Linh Mục Giám Đốc duy nhất.

Các Dòng tu liên tiế[ gặp quá nhiều khó khăn, phải tu chui, khấn chui, một cách vô lý và rất ấm ức. Các giáo xứ vùng kinh tế mới và xa xôi quá khó khăn mới có một Thánh Lễ vào dịp Giáng Sinh hay Phục Sinh…
“Năm 1980, cùng với Đức TGM Phó Têphanô Nguyễn Như Thể, Ngài đi dự buổi họp đầu tiên của HĐGMVN tại Hà Nội. Khi về, cả 2 vị đều rất buồn về Bức Thư Chung không được vừa ý, nhưng vì muốn bày tỏ tính hiệp nhất của Giáo Hội mà đành lòng ký chung. Sau đó, Ngài được đi Roma, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gọi Ngài là “TGM anh dũng”…

“Nhiều lần, Ngài viết thư cho Linh Mục Nguyễn Hữu Vịnh, Chủ Tịch Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo chứng minh rằng Giáo Hội Công Giáo VN đang bị bách hại thực sự; và GHCGVN đã có Hội Đồng Giám Mục VN là cơ quan chính thức để điều hành sinh hoạt Giáo Hội, liên lạc với Chính quyền CS, không cần có thêm Ủy Ban nào hết. Nếu UBĐKCG hoạt động thì UB ấy cao hơn HĐGMVN, tạo nên sự bất hợp lý trong GH.(Tại nhiều Giáo Phận, việc thuyên chuyển, bổ nhiệm Linh Mục, việc du học và du lịch nước ngoài do UBĐKCG nầy lèo lái).

“Đức TGM Nguyễn Kim Điền bị ép buộc phải ký giấy trao cho CSVN sử dụng hầu hết các cơ sở giáo dục và từ thiện của Giáo Phận, bị triệu tập làm việc hơn 100 ngày, suốt ngày bị nghe những lời thóa mạ, bị buộc viết các lời khai, bị buộc ăn năn sám hối vì đã đấu tranh các quyền lợi chính đáng của Giáo Hội, bị buộc tố cáo chê bai các Linh Mục, tu sĩ con cái của mình, không thể truyền chức Linh Mục cho các chủng sinh đã học xong từ lâu, không thể bổ nhiệm các Linh Mục, có thời gian không thể cử hành Nhiệm tích Thêm Sức trong Giáo Phận …” (Lời chứng của LM Nguyễn Văn Lý về cái chết của Đức TGM Nguyễn Kim Điền, viết ngày 4/2/2001)

b. Lời chứng của Ông Bảo Thái (một giáo dân ở Huế):

“Cộng Sản phong tỏa toàn bộ Tổng Giáo Phận Huế bằng ngón đòn “hộ khẩu”. Tất cả đều phải ở nguyên trạng, không được thay đổi, không được di chuyển đi đâu khác ngoài nơi “hộ khấu” của mình. Họ thu hẹp các tổ chức, các hội dòng, và cả Tòa Tổng Giám Mục…bằng một tờ hộ khẩu! Linh Mục Quản Nhiệm một xứ đạo cũng chỉ là chủ một hộ khẩu! Đến hay đi phải được khai báo “tạm trú, tạm vắng”.

“Các thánh đường và các cơ sở trong toàn Tổng Giáo Phận đều không được sửa chữa, trùng tu, nếu chưa khai báo và chưa có phép của nhà nước. Muốn trùng tu, sửa chữa phải khai kinh phí bao nhiêu, do đâu mà có. Các dòng tu không được nhận các em dự tu, Đại Chủng Viện không nhận thêm, cũng như không có các Thầy đại chủng sinh chịu chức Linh Mục. Tiểu Chủng Viện phải giải tán, các cơ sở của Công Giáo hầu hết đều bị trưng dụng thành cơ quan của nhà nước…Các Hội đoàn trong giáo xứ tuyệt đối không được sinh hoạt, nhóm họp, ngay cả các lớp học giáo lý cũng phải bãi bỏ…Không một nhà thờ nào, một giáo xứ nào họ không đặt người ở bên trong để làm “thông tin”, để “báo cáo tình hình”, để “theo dõi hoạt động”, và để “phát hiện sự chống phá”…Thánh lễ có bao nhiêu người tham dự? Vị Linh Mục giảng những gì? Sinh hoạt của giáo xứ ra sao? Có những ai là người lạ mặt? Có những hiện tượng chống đối nào? Những người nầy phải viết báo cáo đầy đủ cho họ hàng tuần, hàng tháng…Phương cách nầy không khác gì những điều họ đã áp dụng trong các trại tù cải tạo. Không một nơi nào mà Công An không theo dõi, kiểm soát…
“Bản thân của Đức TGM Nguyễn Kim Điền, một vị lãnh đạo tinh thần có hàng chục ngàn tín hữu, dưới mắt họ cũng chỉ “một công dân của chế độ”. Họ đã đưa giấy gọi Đức Cha đến Công An “làm việc” và xem Ngài như “một tội phạm”. Ngài phải “làm việc” với họ suốt từ sáng đến chiều, từ tháng này đến tháng khác như thế. Chưa kể các nhân viên hành sự đã thiếu lễ độ với Ngài, đập bàn quát tháo khi thấy Ngài chỉ làm thinh, cầu nguyện và không khai báo gì khác hơn những gì Ngài đã nói một lần. Họ cầm chân Đức Cha một chỗ và không cho phép Ngài đi đâu ra ngoài thành phố Huế, đúng hơn là ra khỏi Tòa Tổng Giám Mục.
“Bản án mà CS lập cho Đức Cha khá dài, những 4 trang, họ kết tội Ngài là “phản động”, “chống đối nhà nước”,”phải được trừng trị”. Bản án nầy được truyền đi khắp các khu phố, bắt các tín hữu Công Giáo phải tập trung để “học tập”, mục đích là tách Ngài ra khỏi Cộng Đồng giáo dân để dễ dàng bóp chết Ngài…” (Bảo Thái: Nghĩ Về Cái Chết Của Đức TGM Nguyễn Kim Điền, Hiệp Nhất số 97 tr.65 xuất bản tại Orange County, California, Hoa Kỳ tháng 01- 2001)

(3) Về cái chết của Đức TGM Nguyễn Kim Điền:
(Xin trích dẫn lời chứng của LM Nguyễn Văn Lý,
về cái chết của Đức TGM Nguyễn Kim Điền)

“Cuối tháng 5/1988, Ngài xin vào điều trị tại Bệnh viện Nguyễn Trãi, sao cho tạm ổn định để có thể đi Roma. Ngài rất nôn nóng đi Roma để báo cáo về Đức TGM Phó mà Ngài định đặt, về Đức Giám Mục Phụ Tá Giacôbê Lê Văn Mẫn mà Ngài đã tấn phong “bí mật” và về Giáo Hội Công Giáo VN và Giáo Phận Huế. Có 2 bác sĩ quen săn sóc, một bác sĩ ở đường Sương Nguyệt Anh, gần nhà thờ Chợ Đũi và một bác sĩ bạn của bác sĩ nầy. Theo họ, Đức TGM bị ung thư đường tiểu, không thể chữa.

“Ngài có bị nhổ 2 cái răng: 1 răng vàng và một răng khôn, có đem 2 răng ấy đến 42 Tú Xương nhờ em ruột của Nha sĩ Phạm Thị Thân khám. Cô y tá ở phòng khám nầy có quen cô Bích Hồng. Cô Nguyễn Thị Kim Anh, 12 A Trương Quốc Dung, F.10 Phú Nhuận Tel:08- 835042/ 08- 8449472 quen biết cô Bích Hồng, Thị Nghè, thuộc tu hội Trợ Tá Tông Đồ, người săn sóc Đức TGM vào những giờ cuối. Hai LM Stanilaô Nguyễn Đức Vệ và Gioakim Lê Thanh Hoàng đi theo Đức TGM để săn sóc Ngài biết cô Hồng nầy.
“Không biết có sự gợi ý của CSVN hay không, nhưng cho dù có, thì cũng chỉ vì chân tình và ngay tình, có hai Đức Giám Mục (tạm thời xin dấu tên) thăm Ngài hai lần khác nhau tại Bệnh Viện Nguyễn Trãi, khuyên Ngài xin vào bệnh viện Chợ Rẫy để có thể xét nghiệm làm hồ sơ xin đi nước ngoài chữa bệnh vì theo hai Đức Giám Mục nầy cho biết trên nguyên tắc Chính Quyền CSVN đã đồng ý. Ngài nghe lời và xin chuyển qua bệnh viện Chợ Rẫy đầu tháng 6/1988, mục đích là để được khám nghiệm trước khi lên máy bay đi Roma. Tại đây, các bác sĩ cho rằng bệnh Ngài quá nặng, không chữa được. Có một lần, Ngài đau đớn quá, Ngài bấm chuông gọi 2 Cha Vệ, Hoàng đưa Ngài về, vì không chữa được, nhưng sau đó, có một điện tín báo: Nhà nước đã cho đi chữa bệnh nước ngoài, giấy tờ đã xong. Ngài rất mừng, vui, ăn hết một tô súp, nhưng bí tiểu.

“Sáng 6/6/1988, cả 2 Linh Mục Huế (Vệ và Hoàng) theo chăm sóc Ngài đều vắng mặt. Ngài có người em ruột là Nguyễn Thị Thủy, Nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán (quen gọi là Dì Sáu) thường trực bên cạnh Ngài rất chu đáo, cẩn thận không để Ngài uống thuốc gì mà không kiểm tra chặt chẽ. Nhưng sáng hôm đó, Nữ tu Nguyễn Thị Quý Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Huế, xin phép thay nữ tu Thủy để săn sóc Ngài. Bà Thủy không chịu, hai người dằng co nhau, nên Đức TGM nói:“Thôi, em để cho người ta săn sóc một lát, em về nghỉ ngơi đôi chút.

Lợi dụng chỗ sơ hở nầy, khoảng từ 10 đến 11 giờ ngày 06/6/1988, một cô y tá đến trao cho Ngài một nắm thuốc. Ngài hỏi cô y tá:“Cô cho tôi uống thuốc gì vậy?” Cô trả lời rất cộc cằn lỗ mãng:“Nhiệm vụ của ông là phải uống những gì chúng tôi điều trị ông, không được hỏi lôi thôi gì cả”. Ngài rất phân vân. Cuối cùng Ngài bằng lòng uống. Uống xong, Ngài cảm thấy rất đau đớn. Ngài hỏi cô ý tá:“Cô biết tôi mấy giờ nữa thì chết không?” Cô y tá ấy hốt hoảng và run sợ trả lời: “Con lạy cụ, xin cụ tha lỗi cho con. Việc nầy là do cấp trên”. Đức Tổng trả lời:“Không những tôi tha lỗi cho cô mà thôi, tôi còn tha thứ cho cả cấp trên sai cô làm, tôi tha thứ hết”. Sau đó, thấy Dì Sáu vào, Ngài nói với Dì Sáu:“Chén đắng Chúa trao, anh đã uống xong. Xin trọn theo ý Chúa”.

Dì Sáu báo cho cô y tá biết Ngài đau đớn lắm. Khoảng 12 giờ 30 trưa, cô y tá ấy trở lại cho Ngài uống một liều thuốc khác. Sau đó Ngài bị tiêu chảy liên tục cho đến chết, không cầm lại được. Các nhân chứng hiện nay đều còn sống, một số nữ tu cần tạm dấu tên một thời gian.

“Khoảng 13 giờ ngày 8/6/1988, Ngài bấm chuông gọi cấp cứu, nhưng không có ai đến cả. Vài phút sau, Ngài qua đời tại phòng Ngài nằm điều trị, phòng này nay đã đổi số, (lúc đó, người thân không ai nhớ số phòng), chỉ nhớ ở tầng lầu thứ 2, bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn, lúc ấy chỉ có Dì Sáu bên cạnh.
“Ngài qua đời xong, cô ý tá gọi điện thoại nói:“Vụ việc đã hoàn thành”.
“Vì muốn đưa ra Huế, bệnh viện đã mổ bộ ruột của Ngài. Bộ ruột nát bầy nhầy khác thường. Một bác sĩ tên Bình, bệnh viện Chợ Rẫy trao cho thân nhân, và đề nghị không nên đưa về nhà nữa. Lúc đó, các thân nhân quá đau lòng, không ai còn bình tĩnh để nhận lãnh cả. Bệnh viện đã đem chôn, nay chưa tìm ra dấu vết. Thật là đáng tiếc.
“Sau đó, cô y tá ấy thanh minh rằng cô không biết Vị mà cô cho uống thuốc là ai, và cô đã xin lỗi thân nhân. Cô được gửi đi du học ngay tại Cộng Hòa Dân Chủ Đức (Đông Đức) theo thời hạn là sẽ trở về Việt Nam tháng 3- 1995. Không rõ nay đang ở đâu.

“Xác Ngài được đưa về Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn.

“Tin tức về cái chết của Ngài bị bưng bít. Tất cả các đường điện thoại gọi ra Huế đều bị cắt. Lúc bấy giờ chưa có Fax, chưa có email. Nội bộ Giáo Hội không ai có điện thoại di động. Cho đến nỗi, Giáo Phận Huế đã thành lập một phái đoàn vào Sài Gòn để tiễn đưa Đức TGM đi Roma. Khi phái đoàn GP Huế vào đến Tòa TGM Sài Gòn, hỏi Đức TGM Huế ở đâu? Nhân viên chỉ một phòng, Giáo Phận Huế tưởng Đức TGM còn sống, không ngờ nhân viên chỉ phòng đang quàn xác Ngài! Các Linh Mục Giáo Phận Huế, tại Huế chỉ biết tin nhờ Radio Veritas, Philippines. Sau đó mới tổ chức đưa xác Ngài về Huế. Nhà nước gây rất nhiều trở ngại để việc đưa xác Ngài về Huế bị chậm lại. Dầu vậy, giáo dân GP Huế quá thương tiếc Ngài đã đón tiếp xác Ngài rất trọng thể.

“Xác Ngài được liệm trong hòm bọc kẽm, phần mặt có lồng kính để thấy được mặt. Môi Ngài tím bầm, mũi trương sình bong bóng máu, làm cho giáo dân thắc mắc, mặc dù đã được điểm trang kỹ lưỡng, nhưng môi Ngài vẫn tím bầm. Đoàn xe tang chở thi hài Đức TGM về Tòa TGM Huế lúc 21 giờ 30 ngày 13 tháng 6/1988, và sáng 14/6/1988 được đưa lên an vị tại Nhà Thờ Chính Tòa Phủ Cam để tín hữu và quan khách kính viếng Ngài suốt ngày đêm. Tối 14/6/1988, vì mặt Ngài biến dạng khác thường, nên ban tẩm liệm đã đậy nắp hòm gỗ che mặt Ngài lại.

Sáng 15/6/1988, Thánh Lễ đồng tế an táng trọng thể do Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, TGM Hà Nội chủ tế cùng với hầu hết các Đức Giám Mục trong HĐGMVN và rất đông các Linh Mục các Giáo Phận của 3 Giáo Tỉnh và của Giáo Phận Huế. Vì số giáo hữu quá đông, nên mãi đến tối 15/6/1988 mới hạ huyệt, rồi ban tẩm liệm đã khoan 5 lỗ quanh hòm kẽm để dễ phân hủy và an táng Ngài tại phía trái Cung Thánh Nhà Thờ Phủ Cam. Linh Mục Nguyễn Kim Bính, Hạt trưởng Thành phố Huế, Chánh sở Nhà Thờ Chính Tòa Phủ Cam trang hoàng mộ Ngài rất lộng lẫty như mộ một Vị Thánh Tử Đạo. Sau đó, phái đoàn Tòa Thánh thăm Nhà Thờ Phủ Cam, thấy vậy có ý kiến rằng: không nên đi trước ý kiến của Tòa Thánh, nên LM Nguyễn Kim Bính đã trang hoàng đơn giản như hiện nay: phần mộ sát với nền Nhà Thờ, bên trên có một tấm đá cẩm thạch đen, có khắc vài dòng về Ngài.

“Dì Sáu, em ruột Ngài là Nữ tu Mến Thánh Giá Chợ Quán, 118 Trần Bình Trọng, Q.5 Sài Gòn. ĐT 08.8350482. Nay ở Nhà Hưu dưỡng Dòng MTG Chợ Quán, 30/1 ấp Truông Tre, xã Linh Xuân, Thủ Đức, Sài Gòn. ĐT. 08.8964116.
“Còn cô y tá đã cho Ngài uồng thuốc là nhân viên cũ của Nữ BS Dương Quỳnh Hoa, hôn thê của BS Trần Văn Thọ, 117 CM 1- 11 cũ, nay là một cơ quan Nhà nước. Cô có làm việc cho BS Nguyễn Văn Thọ, 99 Võ Tánh, gần cổng xe lửa số 6, đối diện với Nhà thờ Cơ Đốc Phục Lâm. Cô có một người bạn Công Giáo, đã trọ học ở 40/5 Ngô Tùng Châu, Gia Định, đối diện với phòng mạch của BS Hoàng Văn Đức, Khoa Trưởng Y Khoa Minh Đức. LM Đỗ Quang Biên, dạy trường Trí Đức do LM Nguyễn Văn Ngà làm hiệu trưởng, LM Nguyễn Văn Hòa (nay là Giám Mục Nha Trang và đã được bổ nhiệm TGM Phó Hà Nội) làm hiệu phó, biết anh nầy, anh hiện ở Đà Lạt”. — (Trích lời chứng của LM Tađêô Nguyễn Văn Lý về cái chết của Đức TGM Nguyễn Kim Điền, viết ngày 4 tháng 2 năm 2001 tại giáo xứ An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên).

4. Một Phật tử ở Huế, anh Từ Tâm, đã “Kính viếng hương hồn Đức TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền” một bài thơ như sau:

LÒNG NGƯỜI MỘ ĐẠO

Con đến Phủ Cam giữa ngày tang lễ,
Góp nỗi buồn trong muôn vạn niềm đau.
Hàng triệu tín đồ sát cánh bên nhau
Vạn vật đổi thay !
Lòng tin bất diệt.

Cha với con tuy chưa từng quen biết,
Lòng kính yêu cha vô bến vô bờ.
Sống giữa muôn người con vẫn bơ vơ,
Nhiều lúc tâm tư hướng về tôn giáo.
Nhưng tổ tiên con tám đời ngoại đạo,
Lẽ nào con trái ý tổ tiên mình !
Suốt cả đời cha trọn nghĩa trọn tình,
Giữ vững niềm tin, coi thường bão tố.
Và cuộc đời con muôn ngàn gian khổ,
Với thù sâu như biển rộng sông dài.

Đứng từ xa cúi mặt trước quan tài,
Lòng quá xót xa ngậm ngùi thương tiếc.
Con trân trọng gửi cha
lời kính chào vĩnh biệt.
Đến Giáo Hội Việt Nam
lời chia buồn thống thiết
Của một người ngoại đạo kính yêu cha.

Vầng trán thông minh can đảm hiền hòa,
Thấm đậm tình thương qua nhiều di ảnh.
Ánh mắt long lanh chứa đầy sức mạnh,
Giản dị trên đầu chiếc nón bài thơ.
Cha mất đi, một chuyện quá bất ngờ.
Đau đớn biết bao người còn kẻ mất
Thể xác cha nằm yên trong Thánh Thất
Linh hồn cha về cạnh Đức Chúa Trời.

Cha để lại cho đời
Một lòng tin bất diệt,
Với khuôn mặt trang nghiêm,
Với tinh thần quyết liệt.
Lưu lại ân tình trong hàng triệu con chiên
Khi nhắc tên cha: Giám Mục Nguyễn Kim Điền.

Huế, tháng 6 năm 1988

Từ Tâm

5. DI CHÚC CỦA ĐỨC TGM PHILIPPHÊ NGUYỄN KIM ĐIỀN:

Giáo Hội Công Giáo
Tòa Tổng Giám Mục Huế
Archevêché Huế
Việt Nam

DI CHÚC

Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần!
Tôi cám đội ơn Chúa đã thương chọn tôi làm con Chúa, Linh Mục và Giám Mục trong Hội Thánh của Ngài, mặc dù tôi rất bất xứng.
Tôi không có ước muốn riêng nào về sự chết và cuộc tẩm liệm hay chôn xác tôi. Sao cũng được, tùy Thánh Ý Chúa và sự liệu định của anh em Linh Mục Giáo Phận, vì tôi chẳng đáng chi cả.
Tôi không có gì để nhắc nhủ các Linh Mục Huế cách đặc biệt, trừ ra xin phép được khuyên các ngài hãy can đảm tỏ ra trung thành với Hội Thánh trong mọi hoàn cảnh, sống đoàn kết trong Linh Mục đoàn và sống trọn vẹn bổn phận chủ chăn nhân hiền.
Tôi cám ơn các Linh Mục trong Giáo Phận đã nhẫn nại chịu đựng tôi và tận tâm cộng tác với tôi. Những ai mà tôi vô tình hay vì bổn phận đã làm mất lòng thì xin tha lỗi cho tôi. Phần tôi, không buồn phiền một ai cả. Xin mọi người cầu nguyện cho tôi.
Về tiền bạc, tôi không mắc nợ ai. Nếu như ai có thấy đang thiếu tôi vật gì, thì tôi vui lòng tha thứ cho hết.
Các vật dụng, sách vở và tiền mặt tôi đang có, thì tôi trối lại hết cho Tòa TGM Huế.
Một lần nữa, tôi cám đội ơn Chúa và xin tạm biệt mọi người, hẹn nhau trên Nhà Cha.

Huế, ngày 8 tháng 11 năm 1985

(ký tên và đóng dấu)

Philipphê Nguyễn Kim Điền

Facebooktwitterpinterestlinkedinmail

Sáng Lập Đảng

Nguyễn Thái Học người Sáng Lập Việt Nam Quốc Dân Đảng

Tìm Bài Theo Tháng

Tự Điển Hỏi Ngã Tiếng Việt