Chính Sách của Hoa Kỳ đối với Châu Á-Thái Bình Dương

Christopher J. LaFler

Christopher J. LaFler:  Chính trị gia của Hoa Kỳ, ông từng cố vấn chính trị tại Toà Bạch Ốc về vấn đề Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan, Nam Hàn. Tư vấn đặt biệt cho Thứ Trưởng Quốc Phòng đặc trách Việt Nam, Lào và Cambodia. Từng giữ chức Thứ Trưởng ngoại giao đặc trách về Châu Á Thái Bình Dương. “CHÍNH SÁCH AN NINH CỦA HOA KỲ Ở CHÂU Á-THÁI BÌNH DƯƠNG: CẤU TRÚC LẠI KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI TƯƠNG LAI CỦA HOA KỲ” của Christopher  J. LaFler là chính sách mới của Hoa kỳ đối với vùng Châu Á Thái Bình Dương sau biến cố 911………

CHÍNH SÁCH AN NINH CỦA HOA KỲ Ở CHÂU Á-THÁI BÌNH DƯƠNG:
CẤU TRÚC LẠI KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI TƯƠNG LAI CỦA HOA KỲ

Christopher A. LaFleur, Đặc phái viên của Cơ quan Tư vấn An ninh Đông Bắc Á Phát biểu tại Tiểu ban châu Á-Thái Bình Dương thuộc Uỷ ban Đối ngoại của Hạ viện

Cảm ơn các quý vị đã cho phép tôi được trình bày về chủ đề Chính sách An ninh của Hoa Kỳ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và An ninh Quốc gia

Mục tiêu của chúng ta ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương dựa trên Chiến lược An ninh Quốc gia 2002 của Tổng thống, khẳng định Hoa Kỳ có trách nhiệm:

  • Bảo vệ nhân phẩm; củng cố liên minh chống khủng bố toàn cầu;
  • Tháo ngòi các xung đột khu vực; ngăn chặn kẻ thù không cho chúng đe dọa chúng ta, đồng minh và bạn bè của chúng ta bằng vũ khí hủy diệt hàng loạt;
  • Kích thích sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu thông qua thị trường và mậu dịch tự do;
  • Mở rộng quá trình phát triển thông qua các xã hội mở và nền tảng dân chủ;
  • Phát triển các chương trình hợp tác với các trung tâm sức mạnh chính của thế giới;
  • Và chuyển đổi các cơ quan an ninh quốc gia của chúng ta nhằm đáp ứng được thách thức của thế kỷ 21.

Chiến lược này được công bố đúng sau ngày 11 tháng 9 năm 2001. Các mục tiêu đòi hỏi tư duy mới về việc tập trung nguồn lực vào chỗ nào trong khu vực Đông Á. Đồng thời, những mục tiêu này cũng tập trung chú ý của chúng ta vào những giá trị trường tồn của Hoa Kỳ với các đồng minh ở châu Á. Năm đồng minh – Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Philippines và Thái Lan – có vai trò quan trọng nhằm đạt được những mục tiêu của chúng ta trong khu vực. Hơn thế nữa, chúng ta hợp tác với các bạn truyền thống, các nhóm khu vực và những nước khác để hỗ trợ sự hợp tác nhằm giải quyết những mối quan tâm của chúng ta.

Chúng ta tăng cường các liên minh và quan hệ hữu nghị ở Đông Á bằng cách đảm bảo rằng đồng minh chủ chốt của chúng ta là Nhật Bản tiếp tục đóng vai trò dẫn đầu trong các vấn đề khu vực và toàn cầu, trên cơ sở lợi ích chung, giá trị chung và quan hệ hợp tác chặt chẽ trong quốc phòng và ngoại giao.

Chúng ta tái khẳng định những giá trị và quyền lợi chung đó với Nhật Bản trong cuộc họp của Uỷ ban Hiệp thương An ninh – thường được gọi là “2+2” – tháng 12 năm 2002.

Tuyên bố Chung “2+2” là bằng chứng cho những quan điểm chung của chúng ta về những nguy cơ phổ biến vũ khí giết người hàng loạt và tên lửa đạn đạo của Iraq, Bắc Triều Tiên, các vấn đề an ninh khu vực, vai trò của Trung Quốc đối với sự ổn định và thịnh vượng của khu vực, hệ thống phòng thủ tên lửa và kế hoạch bố phòng. Tôi xin lưu ý rằng mức độ tham gia của Nhật Bản vào Chiến dịch Tự Do là chưa từng có, còn đối với Nhật Bản đó là việc mở con đường mới.

Chúng ta cộng tác với Hàn Quốc để đẩy lùi Bắc Triều Tiên trong khi vẫn chuẩn bị cho đồng minh này đóng góp nhiều hơn nữa vào sự ổn định rộng lớn hơn trên trường quốc tế trong chiến lược lâu dài. Tại phiên họp ngày 14 tháng 5 năm 2003 ở Washington, DC., Tổng thống Bush và Tổng thống Hàn Quốc Roh Moo-hyun khẳng định lại sức mạnh của quan hệ giữa hai nước, và trong một thông cáo chung hai vị lãnh đạo này đã nhấn mạnh rằng họ không tha thứ vấn đề vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên, đồng thời đòi hỏi sự triệt phá hoàn toàn, không thể đảo ngược và có thể kiểm chứng được chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên thông qua các biện pháp hòa bình trên các nguyên tắc hợp tác quốc tế. Với Nhật Bản và Hàn Quốc, chúng ta đang phối hợp chính sách về Bắc Triều Tiên thông qua các cuộc bàn thảo nhóm tay ba mà gần đây nhất là tại Honolulu ngày 12-13 tháng 6 năm 2003.

Australia chứng tỏ một lần nữa là một đồng minh không thể thiếu trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương về các vấn đề chống khủng bố quốc tế, không phổ biến vũ khí hạt nhân và các vấn đề hợp tác an ninh khác. Chúng ta xây dựng trên cơ sở 50 năm liên minh hợp tác Hoa Kỳ-Australian khi chúng ta tập trung vào các vấn đề an ninh toàn cầu. Vai trò trung tâm của Australia trong cuộc xung đột Iraq, sự ủng hộ đối với quân đội của chúng ta tại Afghanistan, những nỗ lực giữ gìn hòa bình đang tiến hành tại Đông Timor cũng như cam kết của Australia chống lại chủ nghĩa khủng bố trong nước và trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã cho thấy những cam kết của đồng minh này giá trị biết bao đối với sự nghiệp an ninh chung.

Với Philippines, chuyến thăm chính thức của nguyên thủ quốc gia, Tổng thống Arroyo, chứng minh rằng các quan hệ an ninh ngày nay sâu sắc hơn và nồng ấm hơn bất cứ thời gian nào trong lịch sử gần đây. Hai vị Tổng thống cam kết tăng cường quan hệ đối tác nhiều hơn nữa trong những năm tới. Chúng ta đã tăng gấp đôi cam kết hỗ trợ Philippines phát triển khả năng chống lại nguy cơ khủng bố ở miền nam đất nước này. Tổng thống Arroyo cũng đã cam kết đóng góp nhân lực cho liên quân trong nỗ lực tái thiết Iraq. Hơn thế nữa, chúng ta đã xác định Philippines là Đồng minh Quan trọng Ngoài NATO.

Với Thái Lan, chúng ta làm sâu sắc thêm mối quan hệ hợp tác vốn đã chặt chẽ về vấn đề chống khủng bố. Những thành công gần đây bao gồm việc bắt giữ ba thành viên của Jemaah Islamiyah (JI) nằm vùng đang âm mưu đánh bom các phái đoàn ngoại giao và các mục tiêu khác ở Thái lan. Thêm vào đó, nhà cầm quyền Thái Lan, hợp tác chặt chẽ với Hải quan và Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Bangkok, tháng này đã bắt được một người định bán chất phóng xạ.

Mặc dù không phải là một đồng minh, nhưng Trung Quốc cũng đóng một vai trò trọng yếu đối với an ninh châu Á và đóng một vai trò hữu ích trong chiến dịch chống khủng bố. Chúng ta hoan nghênh sự hợp tác của Trung Quốc giải quyết những mối quan tâm chung về chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Cộng hòa Nhân dân Trung hoa đã nhấn mạnh sự phản đối của mình đối với quyết định của Bắc Triều Tiên rút khỏi Hiệp ước Không phổ biến Vũ khí Hạt nhân cũng như những quan ngại về khả năng hạt nhân của Bắc Triều Tiên và mong muốn một bán đảo Triều Tiên phi hạt nhân. Gần đây Trung Quốc đóng vai trò chủ chốt trong việc tổ chức cuộc đàm phán đa phương vào tháng 4 tại Bắc Kinh.

Cuối cùng, chúng ta nỗ lực tăng cường quan hệ với các nước hữu hảo trong khu vực và các định chế khu vực ở Đông Á. Chúng ta đang làm việc để mở rộng quan hệ với ASEAN, Diễn đàn Khu vực châu Á (ARF), và diễn đàn APEC để tác động đến những thay đổi trong khu vực Đông Á đang rất năng động và tăng cường an ninh trong khu vực rộng lớn này. Ngoại trưởng Powell vừa trở về từ Hội nghị cấp Bộ trưởng Hậu-ASEAN và ARF ở Phnom Penh, Campuchia, thảo luận những vấn đề anh ninh trọng yếu của khu vực, bao gồm cả vấn đề Bắc Triều Tiên và Myanmar.

Như Ngoại trưởng đã phát biểu, “Các thành viên ARF đã nói rất rõ rằng chúng ta cần cộng tác với nhau để cho có một bán đảo Triều Tiên phi hạt nhân. Sự hỗ trợ của ASEAN duy trì sức ép lên Bắc Triều Tiên là hết sức cần thiết để đạt được một giải pháp ngoại giao làm cho bán đảo này, khu vực này và toàn thế giới an toàn hơn”.

Để hỗ trợ sự phát triển ASEAN thành một định chế có vai trò trọng yếu đối với an ninh và phát triển của khu vực Đông Nam Á mang vai trò đòn bẩy, chúng ta đang thực hiện Kế hoạch Hợp tác ASEAN (ACP) và Chương trình Sáng kiến cho ASEAN (EAI), do Ngoại trưởng Powell và Tổng thống công bố năm ngoái. Mục đích của những sáng kiến này là tăng cường khả năng định chế của ASEAN, khuyến khích sự hội nhập hơn nữa của các quốc gia mới, còn non yếu hơn về kinh tế vào ASEAN, tăng cường khả năng đóng góp của ASEAN vào sự ổn định trong khu vực, và mở rộng hơn nữa các quan hệ kinh tế vốn đã rất chắc chắn của chúng ta thông qua các hiệp định thương mại với các nước có đủ khả năng ở Đông Nam Á. Chúng ta vừa ký một hiệp định thương mại tự do (FTA) với Singapore và đặt nền tảng cho những hiệp định khác với các nước trong khu vực Đông Nam Á trong tương lai. Vị thế an ninh mà tôi sắp tập trung nói tới là quan hệ với hai đồng minh Hàn Quốc và Nhật Bản.

Hàn Quốc

Cơ hội tham gia một cách tích cực của Hàn Quốc vào quá trình định hình các vấn đề toàn cầu và khu vực đã tăng một cách đáng kể khi nền kinh tế của nước này phát triển. Hàn Quốc đã mạnh mẽ ủng hộ cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố và các hoạt động tại Afghanistan và Iraq chứng tỏ cam kết của quốc gia này với đối tác toàn cầu ngày càng tăng. Gần đây nhất, Tổng thống Roh đã gửi lính công binh và quân y đến giúp Chiến dịch Vì tự do cho Iraq. Hàn Quốc cũng đã viện trợ nhân đạo 10 triệu đô-la Mỹ cho nhân dân Iraq, bao gồm 500.000 đô-la Mỹ giúp cải thiện điều kiện các nhà tù. Hướng về phía trước, Seoul đã nghĩ đến cam kết tái thiết Iraq, nối tiếp viện trợ 45 triệu đô-la đã viện trợ cho Afghanistan.

Những thảo luận của chúng ta về vị thế an ninh với Hàn Quốc được tiến hành trước và đã đạt được những tiến bộ đáng kể, một phần vì chúng ta hợp tác trên cơ sở những hiểu biết được xây dựng qua nhiều thập kỷ nhằm giảm thiểu sự có mặt của Hoa Kỳ tại Hàn Quốc. Đầu những năm 1990, chúng ta đã thỏa thuận tái bố trí lực lượng của Hoa Kỳ tại căn cứ Yongsan ở trung tâm Seoul. Trong vòng mấy năm qua, chúng ta đã chuẩn y các kế hoạch củng cố hạ tầng cơ sở căn cứ Hoa Kỳ tại Hàn Quốc.

Tuy vậy, tại Hội nghị Hiệp thương về An ninh Mỹ-Hàn tháng 12 năm 2002 (SCM) tổ chức tại Washington, DC., cả hai bên đều nhận thấy cơ hội cần tận dụng ưu thế tiến bộ khoa học và nghệ thuật quân sự. Hội nghị SCM này đã xây dựng chương trình “Tương lai cho Sáng kiến Liên minh cấp Chính sách” để tiến hành các thảo luận cấp chính sách nhằm hiện đại hóa và tăng cường liên minh.

Phiên họp đầu tiên của chương trình “Tương lai cho Sáng kiến Liên minh cấp Chính sách” được tổ chức tai Seoul vào ngày 8-9 tháng 4, với sự tham dự của các quan chức cấp cao Bộ Quốc phòng Hàn Quốc và Bộ Ngoại giao -Thương mại. Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Richard P. Lawless và tôi đại diện cho phía Hoa Kỳ góp phần vào sự ổn định trong khu vực. Chúng ta đã đề xuất một kế hoạch tăng thêm sức mạnh cho tương lai của liên minh thông qua việc phát triển hơn nữa khả năng tác chiến của thế kỷ 21. Kỳ. Đối tác Hàn Quốc và chúng ta có chung một quan điểm là liên minh Mỹ-Hàn phải được phát triển theo phương cách không những đảm bảo an ninh cho Bán đảo Triều Tiên mà cả khu vực Đông Bắc Á và rộng hơn. Chúng ta đồng ý trên nguyên tắc để mở rộng vai trò của lực lượng của Hàn Quốc để bảo vệ Bán đảo và tăng cường khả năng của các lực lượng

Hai bên đồng ý hiệp thương hơn nữa về kế hoạch hiện đại hóa vị thế phòng thủ kết hợp Mỹ-Hàn và khả năng đánh chặn thông qua việc củng cố hạ tầng cơ sở kỹ thuật của lực lượng Hoa Kỳ tại Hàn Quốc để có hiệu quả cao hơn, đồng thời đảm bảo sự phát triển cân bằng đất đai của Hàn Quốc. Hai bên cũng đồng ý tiếp tục thảo luận về khung thời gian tái sắp xếp tổng thể.

Tổng thống Bush và Tổng thống Roh Moo-hyun đã xem xét các vấn đề này tại cuộc gặp cao cấp đầu tiên của họ vào tháng 5. Hai vị tổng thống đã cam kết “hiệp thương chặt chẽ hơn nữa về vị thế của lực lượng Hoa Kỳ tại Hàn Quốc trong quá trình chuyển tiếp tiến tới sự có mặt hiệu quả hơn và bền vững hơn của lực lượng quân sự Hoa Kỳ ở Bán đảo”. Hai ông đã xác nhận “cơ hội được tạo ra do sức mạnh của Hàn Quốc ngày càng lớn mạnh tạo ra sẽ tiếp tục mở rộng vai trò của lực lượng vũ trang Hàn Quốc bảo vệ Bán đảo Triều tiên”.

Ngày 4-5 tháng 6, chúng ta tiến hành vòng đàm phán thứ hai về “Tương lai của Sáng kiến Liên minh” ở Seoul. Dựa vào nội dung các cuộc thảo luận cấp cao Mỹ-Hàn tháng 5, Hoa Kỳ và Hàn Quốc nhất trí về chương trình rút lực lượng mặt đất từ Khu Phi quân sự theo hai giai đoạn, kéo dài nhiều năm.

Chúng ta cũng thông báo cho phía Hàn Quốc biết về kế hoạch đầu tư 11 tỉ đô-la nhằm tăng cường khả năng phòng thủ của chúng ta tại Hàn Quốc, bao gồm cả việc nâng cấp hệ thống tên lửa, tăng cường tình báo quân sự. Những biện pháp này sẽ tăng cường tính sẵn sàng chiến đấu của cả hai quốc gia và tăng cường khả năng ngăn chặn. Khả năng phòng thủ tiền duyên vẫn sẽ vững mạnh khi Hàn Quốc đầu tư để nâng cao khả năng của mình và đảm trách một số vai trò hiện nay của các lực lượng Hoa Kỳ. Hơn thế nữa, chúng ta cũng báo cáo về ý định của chúng ta duy trì một căn cứ lớn ở bắc Seoul nơi các đơn vị Hoa Kỳ sẽ luân phiên luyện tập.

Những hiệp thương chặt chẽ với Hàn Quốc vẫn tiếp tục. Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc Cho sẽ đi thăm Washington ngày 26-27 tháng 6. Tại đây ông sẽ gặp Phó Tổng thống, Ngoại trưởng Powell và Bộ trưởng Rumsfeld. Chúng ta dự định tổ chức sớm vòng sau cho đối thoại “Tương lai của Liên minh”

Mục tiêu của hoạt động này là nhằm xây dựng một liên minh Mỹ-Hàn vững mạnh hơn, cấu trúc lại cho phù hợp với thế kỷ 21 và môi trường an ninh mới. Việc này sẽ tăng cường khả năng ngăn chặn trên Bán đảo Triều Tiên và cho phép lực lượng Hoa Kỳ ở Hàn Quốc đóng góp nhiều hơn vào an ninh khu vực. Các căn cứ và nhân viên quân sự của chúng ta sẽ được bố trí lại để tránh ấn tượng rằng chúng ta áp quá sát với các nước láng giềng của Hàn Quốc.

Nhật Bản

Nói về Nhật Bản, quan hệ an ninh song phương của chúng ta vẫn là mấu chốt của vị thế phòng thủ của chúng ta tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Dựa trên Hiệp ước An ninh Chung, chúng ta có quan hệ đôi bên cùng có lợi rất chặt chẽ với Nhật Bản, với điểm quan trọng nhất là khả năng triển khai sớm và rộng từ các căn cứ và phương tiện của chúng ta ở Nhật Bản có thể cho phép. Điều này không chỉ phục vụ quốc phòng của Nhật Bản mà còn vì lợi ích của khu vực và toàn cầu. Nhiều lực lượng của chúng ta đóng ở Nhật, ví dụ như sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở Okinawa, thật sự có sứ mạng chiến đấu tầm xa, cho phép triển khai rất nhanh khi tình huống đòi hỏi.

Mặc dù quan hệ an ninh song phương được thiết lập để giải quyết những vấn đề cục bộ của môi trường Chiến tranh Lạnh, nó đã phát triển vững mạnh khi môi trường an ninh quốc tế thay đổi. Những thay đổi này cho thấy liên minh cần xem xét môi trường an ninh khu vực và quốc tế rộng lớn hơn, vượt ra ngoài việc bảo vệ trực tiếp Nhật Bản. Năm 1997, chúng ta đã điều chỉnh cho sự Hợp tác Quốc Phòng Mỹ-Nhật để xây dựng một khuôn khổ cho các bên hợp tác nhằm đáp trả không chỉ với sự đe dọa đối với Nhật Bản mà cho an ninh của cả khu vực xung quanh Nhật Bản. Về phần mình, người Nhật đã tiến hành một số biện pháp cho phép họ tham gia nhiều hơn vào các vấn đề an ninh quốc tế, ví dụ như việc ban hành luật đầu những năm 1990 cho phép Nhật tham gia một cách hạn chế vào lực lượng gìn giữ hòa bình và gửi quân tham gia vào Chiến dịch Tự do hay hỗ trợ các chiến dịch chống khủng bố ngoài biên giới Nhật Bản.

Quan hệ an ninh tiếp tục phát triển nhanh chóng. Ý thức được rằng chủ nghĩa khủng bố quốc tế là mối đe dọa đối với Nhật Bản, cũng như đối với bất cứ xã hội tự do dân chủ nào khác, người Nhật phản ứng nhanh chóng và quyết tâm chưa từng thấy đối với vụ khủng bố 11 tháng 9. Họ nhanh chóng ban hành một số đạo luật cho phép Lực Lượng Tự Vệ của mình tham gia yểm trợ quân sự cho Chiến Dịch Tự Do. Họ cũng đang trong quá trình ban hành một số đạo luật tương tự cho phép tham gia ở Iraq. Nhật Bản là nước tham gia vào tất cả các công ước của Liên Hiệp Quốc nhằm ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố và đã hợp tác rất hiệu quả đóng ngân hàng tất cả tài sản của các tổ chức khủng bố và giúp xây dựng khả năng chống khủng bố trong các quốc gia thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trong những tháng gần đây, Nhật Bản bày tỏ sự quan tâm đến hệ thống Phòng Thủ Hoả Tiễn mà chúng ta coi là một tiến triển đáng khích lệ.

Trong khi Nhật Bản tiếp tục tuân thủ những hạn chế khắt khe áp đặt cho chính sách quốc phòng của mình, thì có rất nhiều dấu hiệu, như trong nhận xét của tôi, cho thấy người Nhật hiểu rằng mở rộng sự đóng góp cho liên minh của chúng ta là phục vụ quyền lợi của nước Nhật.

Sự suy nghĩ mới này được phản ánh không chỉ trong những việc làm gần đây của Nhật Bản mà cả trong những nỗ lực cùng chúng ta tìm kiếm những phương thức có thể tăng cường liên minh hơn nữa và phát triển vị thế an ninh của chính Nhật Bản. Tháng 12 năm ngoái, tại phiên họp “2+2” của Bộ trưởng Quốc phòng và Ngoại giao hai nước, người Nhật đồng ý “tăng cường hiệp thương an ninh để tìm ra lĩnh vực hợp tác nhằm củng cố một cách có hiệu quả những nỗ lực quốc gia của mỗi bên”. Chúng ta đang tiếp nối hiệp ước này trong tất cả các cuộc thảo luận với người Nhật về phương cách phát triển liên minh của chúng ta nhằm đối phó với môi trường an ninh đang tiến triển.

Những chủ đề chúng ta sẽ đề cập bao gồm đánh giá lại nguy cơ phải đối mặt, vai trò và sứ mạng chúng ta phải đảm đương để giải quyết những trở ngại, lượng giá về lực lượng cho phép chúng ta làm được như vậy, và những nhu cầu mà những lực lượng này cần có.

Chúng ta vẫn còn ở giai đoạn sơ khởi trong quá trình thảo luận, nhưng chúng ta đã xem xét lại những quyền lợi chiến lược tổng thể và khẳng định rằng chúng ta có nhiều lợi ích và giá trị chung . Người Nhật cho thấy rằng họ sẽ xem xét những bàn thảo này như những kế hoạch quốc phòng được cập nhật của họ. Về phía mình, chúng ta đã thông báo cho đối tác Nhật Bản biết về kế hoạch xem xét cấu trúc lực lượng tương lai và đảm bảo với Nhật Bản rằng chúng ta sẽ thảo luận chặt chẽ với họ trước khi đi đến bất cứ kết luận cuối cùng nào.

Nói tóm lại, liên minh của chúng ta với Nhật Bản và Hàn Quốc đang tiến triển tốt, đang lớn mạnh và đang thích nghi với môi trường an ninh đang biến động. Chúng ta sẽ tận dụng thái độ đang tiến triển của đồng minh Đông Bắc Á về an ninh toàn cầu, khu vực và cục bộ để có thể vừa có khả năng, một mình hoặc cùng đồng minh, đối phó với những đe dọa của ngày hôm nay, vừa đối phó với những đe dọa trong tương lai.

Quá trình này là một quá trình phức tạp, nhưng Nhật Bản, Hàn Quốc và Hoa Kỳ đang tiếp cận nỗ lực này bằng niềm tin và thiện chí. Chúng ta tin tưởng rằng kết quả cuối cùng là củng cố liên minh của chúng ta với Nhật Bản và Hàn Quốc, như các đối tác của chúng ta thấy chúng ta nhanh chóng ứng đối trước những thay đổi trong khả năng và ý định của họ mong muốn vai trò lâu dài của chúng ta tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Facebooktwitterpinterestlinkedinmail

Sáng Lập Đảng

Nguyễn Thái Học người Sáng Lập Việt Nam Quốc Dân Đảng

Tìm Bài Theo Tháng

Tự Điển Hỏi Ngã Tiếng Việt