Biển Đông: Đòi hỏi lãnh thổ của Việt Nam bằng 1.9% đòi hỏi của Trung Quốc

Ảnh vệ tinh bãi Sơn Ca chụp sau năm 2011

Trong một tài liệu được gửi đến các cơ quan truyền thông quốc tế, ngày 09/05/2015, giáo sư Carlyle A. Thayer, chuyên gia về Châu Á, thuộc học việc Quốc phòng Úc, đã đưa ra những nhận định về báo cáo và ảnh vệ tinh do Trung Tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), có trụ sở tại Washington DC, vừa công bố, liên quan đến các hoạt động bồi đắp, cải tạo đảo, bãi đá của Trung Quốc và Việt Nam tại Biển Đông. RFI xin giới thiệu.

Báo cáo đăng trên website Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Âu (AMTI), thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) sẽ thuận nhĩ Trung Quốc bởi vì Trung Quốc và những nước ủng hộ họ khẳng định là Trung Quốc chỉ đang đuổi kịp các quốc gia trong vùng. Trung Quốc đã cáo buộc là những nước trong vùng cũng có đòi hỏi lãnh thổ, xây dựng các cơ sở quân sự và thậm chí đặt cả hỏa tiễn.

Báo cáo của CSIS cung cấp một thông tin mới trong khu vực là việc xây dựng trên đảo Sơn Ca (Sand Cay) và rạn san hô Đá Tây (West London Reef) từ năm 2010. Những bức ảnh mới nhất về đảo Sơn Ca và rạn san hô Đá Tây đã được công bố từ trước. Báo cáo của CSIS có thể nhầm lẫn khi nhấn mạnh rằng các căn cứ quân sự này là “đáng kể”“. Việt Nam đã chiếm giữ các thực thể lãnh thổ này từ năm 1956, ban đầu là Việt Nam Cộng hòa, sau đó là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Các ngọn hải đăng đã được dựng lên trong những năm 1990 (nếu không muốn nói là sớm hơn). Tất cả các đảo, thực thể lãnh thổ mà Việt Nam chiếm giữ đều có nhân viên quân sự. Việt Nam cũng có “các công sự”” cho mục đích phòng thủ. Các công sự bằng bê tông mỏng này không chắc chắn, kiên cố lắm.

Có một số điểm cần làm rõ. Trước tiên, phải chăng các hoạt động vừa nói ở trên cho thấy sự thiếu vắng tự kiềm chế có thể làm cho các tranh chấp thêm phức tạp hoặc nghiêm trọng hơn và ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định trong vùng Biển Đông này ? Có những quy định nêu trong Tuyên bố chung về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002. Bằng chứng mà AMTI thuộc CSIS đưa ra liên quan đến đòi hỏi lãnh thổ của Việt Nam cho thấy đó là những hoạt động bình thường mang tính phòng thủ và không đe dọa hòa và ổn định khu vực.

Thứ hai, bất chấp các số liệu mà CSIS công bố, đòi hỏi lãnh thổ của Việt Nam chỉ bằng 1,9% diện tích lãnh thổ mà Trung Quốc đòi hỏi (diện tích hai nơi này mà Việt Nam chiếm giữ là 0,03 dặm vuông, đem chia cho diện tích mà Trung Quốc chiếm giữ đòi hỏi ở đây là 1,55 dặm vuông). Hoặc chỉ riêng tại Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef), tổng đòi hỏi lãnh thổ của Việt Nam bằng 9,5% diện tích mà Trung Quốc khẳng định là của mình.

Thứ ba, trong quá khứ, Trung Quốc đã sử dụng sức mạnh quân sự để chiếm giữ các đảo và thực thể lãnh thổ ở Biển Đông (tháng Giêng năm 1974 tại phía tây quần đảo Hoàng Sa và tháng Ba năm 1988 tại Đá Gạc Ma – Johnson South Reef – và các thực thể lãnh thổ lân cận). Trung Quốc đột ngột và không cảnh báo trước, chiếm lĩnh Đá Vành Khăn (Mischief Reef) và tiếp tục xây dựng tại đây từ năm 1995 cho đến nay. Trung Quốc cũng đã thực sự thôn tính Hoàng Nham đảo (Scarborough Shoal) và đầu tư (nhằm mục đích quân sự) vào Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) ở vùng biển Philippines.

Các hành động của Trung Quốc đã làm dấy lên những lo ngại về an ninh tại Philippines bởi vì các quan chức Trung Quốc nhấn mạnh là họ có quyền lập Vùng Nhận diện Phòng Không trên không phận các thực thể lãnh thổ này. Trong sáu tháng qua, các quan chức Trung Quốc đã yêu cầu các máy bay quân sự Philippines ra khỏi không phận mà Manila khẳng định đó là không phận quốc tế.

Thứ tư, tất cả cái gọi là “công sự” và cơ sở xây dựng quân sự trên các hòn đảo nhỏ của Việt Nam đều có tính chất phòng thủ và không đủ lớn để yểm trợ cho bất kỳ một hành động tấn công nào. Các bức ảnh của CSIS cho thấy các “vị trí đặt pháo” nhưng không thấy có súng ống gì.

Trung Quốc cần làm rõ loại hỏa tiễn nào được cho là đặt trên các hòn đảo và thực thể lãnh thổ của Việt Nam. Những cáo buộc theo kiểu này trước tiên là do Đài Loan đưa ra và liên quan đến loại hỏa tiễn phòng không vác vai. Sau đó, Đài Loan đã rút bỏ những cáo buộc này.

Thứ năm, do cách thức bình luận về loạt hình ảnh mới này, CSIS đã làm cho mọi việc trở nên rối ren, không rõ ràng, khi sử dụng các từ như “đáng kể” và “quân sự” mà không xem xét những bức ảnh này trong bối cảnh riêng của nó, theo tinh thần DOC.

Tuy nhiên, CSIS cũng bình luận là các hoạt động đòi hỏi lãnh thổ của Trung Quốc lớn hơn rất nhiều so với hoạt động của Việt Nam. Đòi hỏi lãnh thổ của Việt Nam có thể là “đáng kể” nếu CSIS chứng minh rằng, ví dụ, Việt Nam đã mở rộng một hòn đảo nhỏ đến mức nó chiếm tới 66% tổng diện tích khu vực này.

Thứ sáu, việc công bố toàn bộ những bức ảnh vệ tinh được cho là vì sự minh bạch đối với tất cả các bên liên quan. Vậy tại sao Trung Quốc và Việt Nam lại đưa ra đòi hỏi lãnh thổ ? Họ có ý định làm gì để thực hiện đòi hỏi này ?

Nhiều năm trước khi có Tuyên bố chung DOC 2002, Việt Nam đã xây dựng đường băng Việt Nam trên đảo Trường Sa. Nhưng các hành động của Trung Quốc trong quá khứ kết hợp với việc xây hai đường băng mới, trong đó có một đường băng dài rộng trên đảo Sơn Ca vào năm 2015, có thể phục vụ cho đủ loại máy bay quân sự, làm dấy lên những lo ngại về các ý đồ của Trung Quốc về lâu dài. Những hành động này có thể làm cho các nước trong vùng có những biện pháp đối phó. Chính vì thế, các hành động của Trung Quốc làm phức tạp tình hình hiện nay và có thể dẫn đến leo thang tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở vùng Biển Đông này.

Các nhà thương thuyết ngoại giao của ASEAN và Trung Quốc trong Nhóm Công tác Hỗn hợp về thực hiện DOC nên xác định xem phải chăng các đòi hỏi lãnh thổ của Trung Quốc và Việt Nam có vi phạm điều khoản “tự kiềm chế” hay không và liệu các hành động này có ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định trong vùng hay không. Thế nhưng, họ sẽ không làm việc này”.

Đức Tâm

Facebooktwitterpinterestlinkedinmail

Sáng Lập Đảng

Nguyễn Thái Học người Sáng Lập Việt Nam Quốc Dân Đảng

Tìm Bài Theo Tháng

Tự Điển Hỏi Ngã Tiếng Việt